Tối đi ngang cõi mạng, rơi vào một thế giới màu sắc của Nhật. Không chỉ có một bảng màu phong phú sắc độ mà cách họ đặt tên cho từng màu cũng thật là hay.
Một số màu có thể kể:
曙色 - Akebono-iro - Dawn-color - Màu của bình minh
檜皮色 - Hihada-iro - Cypress bark color - Màu gỗ bách
朽葉色 - Kuchiba-iro - Decaying leaves color - Màu lá úa
利休白茶 - Rikyūshiracha - Faded Sen no Rikyū's tea- Tách trà nhạt của Rikyū (Một trà sư nổi tiếng có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa uống trà của Nhật Bản, ngay cạnh bên đó là màu 利休茶 - Rikyūcha - Tách trà của Rikyū )
路考茶 - Rokōcha - Contemplation in a tea garden - Suy tư trong vườn trà (Đây là một màu nâu trầm, gần với umber)
裏柳 - Urahayanagi - Underside of willow leaves - Mặt lưng của lá liễu (Màu xanh non)
虫襖 - Mushiao - Insect green - Màu xanh côn trùng
湊鼠 - Minatonezumi - Harbor rat - Màu lông chuột nơi hải cảng (Xin thề chưa thấy con chuột nào ở cảng có màu xanh nhạt này)
Và cái tên màu mình thích nhất có lẽ là
白練 - Shironeri - Unbleached silk - Màu lụa sống
Trong bảng màu mình thường thấy khi đi mua màu vẽ, đây là một sắc độ của màu trắng, kem hồng, mà thường được gọi nhất là Flesh tint, màu da người. Màu sắc này gây tranh cãi nhiều năm qua, nhưng nhờ sự kiện BLM mà nó đã trở thành một vấn đề lớn được đặt ra cho các hãng màu. Hiện nay, màu flesh tint không còn tồn tại, tên nó đã được thay đổi tùy theo mỗi hãng, như màu Maimeri mình hay dùng đã đổi thành Naples yellow red, Daler Rowney gọi nó là Peach - màu quả đào, Faber Castell từng có những màu da cụ thể hơn như da đen, da vàng... nay đã đổi thành màu san hô, màu cá hồi, màu kem đỏ... Không có ngoại lệ ngay đến những hãng danh tiếng lâu đời như Schmincke, Old Hollands, Winsor Newton... Đọc full statements tại đây https://www.jacksonsart.com/.../redefining-skin-and.../
Nhưng không có cái tên nào hay bằng Shironeri - Màu lụa sống : )
Đọc thêm về màu sắc Nhật cùng bảng màu phong phú của họ tại Đây