Chẳng vấn đề gì (Mourid Barghouti) / by Phuong Nguyen

Chẳng vấn đề gì
Mourid Barghouti
From English translation by his wife Radwa Ashour
—-

Tôi nhìn lại chính mình:
Không có vấn đề gì.
Tôi trông khá ổn, có lẽ
vài thiếu nữ sẽ nghĩ rằng
ngay tới mái tóc bạc của tôi cũng khá hấp dẫn;
gọng kính được rèn đúc chỉn chu,
thân nhiệt chính xác ba mươi bảy độ,
sơ-mi được ủi phẳng, hai chiếc giày vừa vặn.
Chẳng vấn đề gì cả.

Hai tay tôi không bị trói trong còng sắt,
Và miệng lưỡi tôi chưa bị buộc phải im lặng,
Chưa ai giáng xuống tôi một bản án
Và tôi vẫn có thể đến bàn làm việc mỗi sáng;
Tôi được phép đến thăm họ hàng ở tù giam
và được đến viếng mộ một vài người ở đất nước khác.
Chẳng có vấn đề gì cả.

Và tôi không ngạc nhiên khi gã bạn thân
đầu đã trổ sừng.*
Tôi thích cách gã khôn ngoan giấu đi cái đuôi lồ lộ
dưới lần vải áo, móng vuốt của gã điềm tĩnh làm sao.
Anh có thể giết tôi, nhưng rồi tôi sẽ tha thứ
bởi anh là một người bạn;
anh có thể đả thương tôi đôi lúc.
Không vấn đề gì cả.

Nụ cười của phát thanh viên truyền hình
chẳng khiến tôi phát ốm nữa.
Tôi cũng dần quen thuộc khi màu Khaki**
chặn đứng dải màu của riêng tôi
thâu đêm suốt sáng.
Và đó là lý do
giấy căn cước tôi luôn cắp bên mình
ngay cả khi đang ở hồ bơi.
Chẳng vấn đề gì cả.

Giấc mơ của tôi bắt chuyến tàu đêm qua
khi tôi chưa tìm thấy lời tạ từ.
Rồi tôi nghe thấy đoàn tàu đã rơi
xuống một thung lũng cằn cỗi
(chỉ còn mỗi người lái tàu sống sót).
Tôi tạ ơn Trời, rồi dặn lòng nguôi ngoai
Bởi còn đó những cơn ác mộng nho nhỏ
còn đó niềm hy vọng chúng sẽ chuyển mình thành giấc mộng lớn lao.
Chẳng vấn đề gì cả.

Tôi nhìn lại mình, từ khi hoài thai cho đến hiện tại.
Chìm giữa đớn đau, tôi chợt nhớ lại
Có một cuộc đời sau cái chết;
Có một cuộc đời sau cái chết
Và tôi ổn với điều đó
Nhưng rồi tôi bàng hoàng chất vấn:
Thánh Thần ơi
liệu có một cuộc đời trước cái chết hay không?

——

(Hoài Phương dịch)
English © Translation: 2009, Radwa Ashour
From: Midnight and Other Poems
Publisher: Arc Publications, Todmorden, Lancashire, 2009

(Hoài Phương dịch)

English © Translation: 2009, Radwa Ashour, from Midnight and Other Poems. Publisher: Arc Publications, Todmorden, Lancashire, 2009

*Đoạn này ám chỉ Israel

**Khaki: ám chỉ màu áo của lính Israel.

Một trong những bài thơ của Mourid Barghouti - nhà văn lưu vong người Palestine - được dịch sang tiếng Anh bởi vợ của ông là bà Radwa Ashour - một nhà văn người Ai Cập.

Mourid Barghouti sinh năm 1944 tại một thị trấn không xa Ramallah, và chỉ bốn năm sau đó, cả gia đình ông rơi vào cảnh ly tán khi đại họa Nakba xảy ra và họ sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Mourid Barghouti khi lớn đã chuyển đến Cairo theo học ngành ngữ văn Anh, nơi ông gặp tình yêu của đời mình là Radwa Ashour - con gái của một luật sư và một văn sĩ. Bà say mê lịch sử, chính trị, văn học và đã bị cuốn hút bởi Mourid Barghouti khi đến những buổi đọc thơ của ông. Trước khi đến với nhau như người yêu, họ đã là hai người bạn thân thiết, thường xuyên trao đổi thư từ ngay cả khi Mourid Barghouti đã tốt nghiệp và đi làm ở Bahrain. Dần dà tình yêu nảy nở, Mourid Barghouti quay lại Cairo và xin phép gia đình Radwa Ashour được cưới cô làm vợ, nhưng đã vấp phải sự chống đối bởi vì hoàn cảnh và xuất thân của ông - một người Palestine lưu vong, không nhà, không quê hương, không phải là người bạn đời mà họ mong muốn cho con gái của mình. Tuy nhiên khi thấy tình yêu giữa hai người trẻ quá mãnh liệt, cha của Radwa Ashour đã chịu thua và đồng ý cho họ đến với nhau.

Ngày họ kết hôn, Mourid Barghouti đã viết nên dòng thơ:

"Sáng ngày 22, tháng bảy, năm 1970, chúng ta đã trở thành một gia đình,

Và nụ cười nàng là nơi ta gọi là nhà."

Một mối tình đẹp nảy sinh giữa triền miên phản kháng.

Ảnh: Mourid Barghouti và Radwa Ashour tại Cairo khi còn trẻ.