Ito Jakuchu

ITO JAKUCHU phần 5: Thiên Họa Tuyệt Bút by Phuong Nguyen

500 La Hán (Ngũ Bách La Hán), mực trên lụa, Ito Jakuchu

Những năm tiếp theo, Ito Jakuchu khởi đầu một dự án mới mẻ đầy tham vọng mà ông sẽ dành toàn bộ tâm tư cho đến cuối cuộc đời mang tên 500 La Hán (Ngũ Bách La Hán). Khởi nguồn từ một bức thủy mặc về điển tích 500 vị La Hán vượt dòng Trường Giang, ông phát triển ý tưởng này thành một công trình sắp đặt điêu khắc gồm hơn 1 ngàn bức tượng đặt rải rác trong khu vườn lớn sau lưng đền thờ Sekiho-ji ở phía nam Kyoto, một đền thờ theo môn phái Obaku mà ông đặc biệt dành nhiều tình cảm. Dự án này thể hiện 8 giai đoạn cuộc đời của Phật Thích Ca, những cuộc gặp gỡ đã đưa hoàng tử Siddhartha trở thành Đức Phật, những chuyến hành hương, khung cảnh khi Ngài nhập cõi Niết Bàn và rải rác khắp khu vườn là vô số môn đồ thường được gọi dưới cái tên 500 vị La Hán. Đây là một chủ đề quan trọng khác trong các điển tích Phật giáo đại thừa, chỉ đến 500 môn sư từng tu tập khi Đức Phật Thích Ca tại thế, tuy cũng có những phiên bản khác kiến giải rằng 500 La Hán này là những tỳ kheo được tập hợp lại sau khi Đức Phật đã nhập diệt nhằm mục đích ghi chép lại và phổ biến những bài giảng của Người.

Trong dự án kéo dài nhiều năm này, Ito Jakuchu tuy không là người trực tiếp làm công việc tay chân nhưng ông là người duy nhất bỏ tiền ra thuê nghệ nhân cũng như cung cấp mọi nguyên vật liệu cần thiết. Những khối đá thô đủ mọi kích cỡ được ông lựa chọn cẩn thận, phác thảo sơ hình dáng bằng mực đen, rồi chuyển đến tay nghệ nhân để đục khắc, tạo hình ở mức độ tối thiểu nương theo dáng hình vốn có của phiến đá, sao cho chúng vẫn giữ được dáng vẻ tự nhiên hòa hợp với những lối nhỏ quanh co đầy rêu phong, cổ kính của đền Sekiho-ji. Ông đã vẽ nên tổng cộng ba bức tranh dựa theo khu vườn ở Sekihoji qua những giai đoạn khác nhau, âu cũng là điều hiếm thấy bởi ông không mặn mà với chủ đề cảnh quan. Nguyên bản bức tranh đầu tiên được dùng như bản thiết kế cho sắp đặt này đã thất lạc, người đời sau đã dựa theo những tư liệu còn sót lại để tái hiện chúng thành tranh in mộc bản mà nay khi đến thăm đền ta có thể mua bản in này như một món quà lưu niệm.

Cổng vào đền Sekihoji

Cổng vào của đền thờ Obaku thường được vát tròn với cánh cổng vuông và Ito Jakuchu đã bỏ hẳn phần mái gỗ mà chỉ để lại một hình tròn như hòn đá càng khiến chúng thêm phần siêu thực. Trụ trì Sakata tại đền kiến giải rằng cánh cổng đền tượng trưng cho sự chuyển hóa từ cõi hồng trần sang những cảnh giới cao hơn, nên về một khía cạnh nào đó nguyện vọng của Ito Jakuchu không chỉ tái hiện lại câu chuyện của Đức Phật mà ông còn muốn tạo nên một khu vườn gần nhất với cõi Niết Bàn. Cánh cổng đền được thay thế bằng chữ Yuge, vừa có nghĩa là hơi nước, vừa là một cảm thức về sự an lạc tự do một người trải nghiệm sau khi đã đạt đến cảnh giới “satori” hay còn gọi là thức tỉnh, nên khu vườn của Ito Jakuchu cũng có thể được hiểu như một nơi khi ta bước vào là rũ bỏ những tham sân si của cõi thế tục và chỉ còn lại cảm giác lâng lâng bồng bềnh như mây khói sau khi đã giác ngộ. Trụ trì cũng chỉ ra rằng trong thời gian công trình này đang tiến hành, người thầy dạy Thiền học cho Ito Jakuchu là Hakujun Shoko đã qua đời, và từ thời điểm này trở đi khu vườn này mang thêm một ý nghĩa lớn lao khác với riêng ông: lòng tưởng niệm và mong cầu người thầy của ông sẽ bình yên đến cõi cực lạc.

Một biến cố lớn xảy ra khi Ito Jakuchu 73 tuổi đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của ông. Trận đại hỏa hoạn vào năm 1788 kéo dài suốt hai ngày hai đêm đã san bằng Kyoto thành bình địa. Chôn vùi trong đống tro tàn là hàng rau gia truyền Masugen, xưởng vẽ Shin-enkan nơi Ito Jakuchu từng sinh sống làm việc bên bờ sông Kamo và đền thờ Shokoku-ji nơi người bạn vong niên Daiten trụ trì. Phần lớn các bảo vật trong đền đã bị thiêu rụi, tuy nhiên thật may mắn thay bộ tranh Doshoku Sai-e đã được cứu thoát khỏi ngọn lửa dữ. Trước khi biến cố này xảy ra, Ito Jakuchu vốn sống trong cảnh nhàn bởi xuất thân từ một hàng rau có tiếng tăm lâu đời ông chưa từng phải lo lắng về cơm ăn, áo mặc, những tác phẩm ông tạo ra hoàn toàn đến từ cái tâm vô sở cầu hay như ông từng nói, đó là phát nguyện của ông đến cõi chư thần chứ không dành cho cuộc sống thế tục. Nhưng giờ đây ông phải vẽ tranh kiếm tiền, kiếm sống qua ngày.

Vào độ tuổi 75, ông đã hoàn thành một bộ cửa trượt cho đền thờ Saifuku-ji theo yêu cầu của thương gia giàu có vùng Osaka mang tên Yoshino Yosai Goun với chủ đề mà ông lão luyện nhất: kê hùng đồ (gà trống và gà mái). Bộ cửa trượt 6 tấm này được đánh giá là một trong những kiệt tác để đời của Ito Jakuchu. Ở mặt trước cửa trượt, đàn gà trống mái được vẽ bằng bột màu khoáng vô cùng tỉ mỉ sống động bên cạnh những cây xương rồng gai góc trên nền giấy washi được thếp vàng ròng rực rỡ, gợi nhớ đến phong cách ngày xưa với bộ Doshoku Sai-e. Và ở mặt sau thì ngược lại, là một bức thủy mặc tĩnh lặng miêu tả cảnh hồ sen khô cạn, héo tàn vào cuối mùa thu. Những đóa sen trong hồ dáng hình đổi thay từ khi là một búp sen nhỏ cho đến khi mãn khai, rơi rụng, để lộ đài sen bên những chiếc lá khô cong, ngụ ý về dòng chảy của thời gian và sự vô thường của kiếp sống. Hoa sen thường được xem là hoa của cõi Phật, tuy nhiên trong bức tranh của Ito Jakuchu dáng hình tả tơi và quạnh quẽ của hồ sen này phản chiếu tâm tư của ông về sự hữu hạn chóng vánh của nhân sinh và tình cảnh của chính cuộc đời mình.

Những năm sau đó Ito Jakuchu thường xuyên đi lại giữa Kyoto và Osaka, đôi khi lưu trú tại nơi ông thực hiện những bức tranh đặt hàng hằng tháng trời. Dẫu ở độ tuổi hơn 75, nội lực và đam mê sáng tác trong ông vẫn dồi dào không thua gì khi còn trai trẻ, nhưng cũng như tất cả mọi người ông không tránh khỏi sự xói mòn của thời gian. Những bức tranh sau này thấy rõ sự suy giảm về bút lực, và theo nhiều ghi chép thì sau khi hoàn thành một bộ cửa trượt khác cho đền thờ Sekiho-ji ông lâm trọng bệnh, đến nỗi những người bạn vong niên trong đó có Daiten đã đến thăm ông và đọc kinh cầu siêu bên giường bệnh vì ngỡ đâu ông đang lưng chừng hấp hối. Tuy nhiên thời gian của ông vẫn chưa đến điểm tận, sau khi bình phục ông đã dứt khoát về hưu, thôi không nhận vẽ tranh đặt hàng nữa và lui hẳn vào trong đền thờ Sekiho-ji sinh sống. Ông dựng nên một căn nhà nhỏ trong khu vườn ngôi đền đặt tên là Thảo am già, nơi ông sinh sống cùng người em gái góa phụ nay đã quy y lấy pháp danh là Shinjaku. Sau khi chồng mất, bà dọn vào trong chùa cùng các con, chăm sóc cho anh trai Ito để ông có thể tiếp tục vẽ tranh. Bên cạnh đó, bà cũng sáng tác thơ waka và vẽ tranh in thạch bản taku-hanga để kiếm thêm thu nhập.

Cả cuộc đời Ito Jakuchu chưa từng thu nhận học viên dẫu cho giới mộ điệu từng đổ về Kyoto chiêm ngưỡng những bức tranh của ông và không ít người tỏ ý muốn tầm sư học đạo, nhưng sau khi về hưu và lui về sống cuộc đời ẩn dật trong trang viên đền thờ , ông đã thu nhận vài học viên và họ lấy nghệ danh mượn cảm hứng từ tên ông: Jakuen, Ichū và Sochū. Họ phụ giúp ông trong việc sinh hoạt ngày thường, chuẩn bị dụng cụ vẽ tranh, đồng thời cũng học hỏi những kiến thức từ người thầy của mình để phong cách của ông không thất truyền.

Một sự thú vị là vào những năm cuối đời này, Ito Jakuchu thường dùng nghệ danh beito-o, có nghĩa là một ông già vẽ tranh để đổi gạo. "Bei" là gạo, "to" là đơn vị đo lường tương đương 18lt, và "o" là một ông già. Thật khó tưởng tượng một hoạ sư được kính trọng nhất tại Kyoto lại có một nghệ danh khiêm nhường như vậy. Nhưng xét lại phần lớn cuộc đời ông đã thường tránh xa phồn hoa phố thị, nhiều phần ẩn dật, lại là một cư sĩ, nghệ danh này phản ánh tâm tư một người hiểu rõ cái tài mình có sau cuộc đời dài cần mẫn lao động nhiều cống hiến, dù giao du với tầng lớp quý tộc tăng lữ nhưng đôi chân chạm đất không tự phụ nghĩ rằng mình thanh cao sống trên những khốn khó căn bản đời người như cơm ăn, áo mặc.

“Một chiếc sọ trắng”, Ito Jakuchu, mực trên giấy.

Một bức tranh thủy mặc mà ông vẽ vào tuổi 79 mang chủ đề “memento mori” khác lạ với một chiếc đầu lâu và vài khúc xương trắng trơ trọi trên một cánh đồng lưa thưa cỏ, đây dường như là tác phẩm ông vẽ cho chính mình. Ông đã quen thuộc với sự già yếu bệnh tật và sẵn sàng đón nhận cái chết vốn có thể ập đến thình lình. Sự tương phản mạnh mẽ giữa mực đen giấy trắng là một ảnh hưởng rõ rệt từ tranh in mộc bản taku-hanga mà ông thực hành khá thường xuyên vào những năm cuối đời. Trong bức tranh có bút tích của nhà thơ thời Edo mang tên Kagawa Kageki viết rằng:

Nếu vầng trăng đêm nay
Cứ tiếp tục tỏa rạng
Hẳn rằng chẳng có ai
Ngủ đến khi trời sáng
Ở trên thế gian này.
(Dịch bởi Pháp Hoan)

Vào năm 1796, khi Ito Jakuchu 81 tuổi, ông sáng tác một bộ tranh thủy mặc khác gồm 12 bức tranh rời trên giấy gasenshi mang chủ đề rau quả. Khác với bức tranh Thái Niết Bàn, các thức rau như củ cải, ngó sen, khoai môn, nấm matsutake… đều là chủ thể duy nhất trong tranh, được phóng đại lên hết cỡ giấy bằng những vệt nhất giác đen dày, dứt khoát đầy tính động, tràn trề sức sống. Bộ tranh này là món quà gửi đến mạnh thường quân mang tên Takeuchi Shinzo, người đã viện trợ rất nhiều trong quá trình xây dựng điện thờ Quan Âm cho đền thờ Sekihoji. Bộ tranh này vốn không được bồi biểu mà lưu trữ thành từng cuộn trong hộp bảo quản, rồi được truyền qua nhiều đời con cháu của Shinzo, cho đến dịp kỷ niệm 85 năm ngày mất của Ito Jakuchu tại đền thờ Shokokuji mới được trưng bày thị chúng lần đầu tiên và họ đã quyết định bồi 12 bức tranh này thành sáu tấm bình phong. Người thưởng lãm đã bày tỏ sự xúc động vô cùng vì sau ngần ấy thời gian được bảo quản cẩn thận, những bức tranh vẫn còn mới nguyên không xây xước mối mọt, tưởng như chúng chỉ vừa được Ito vẽ ra vài hôm trước đó.

Dự án lớn cuối cùng trong cuộc đời Ito Jakuchu là trang trí trần nhà cho sảnh thờ Quan Âm tại đền Sekiho-ji với đủ loại kì hoa dị thảo. Khi này ông đã 84 tuổi, và vì sức khỏe không cho phép, ông đã tín nhiệm phần lớn khối lượng công việc cho các môn sinh của mình. Khi tác phẩm hoàn thành, trong một góc tranh ông đã kí tên với bút danh Beito-an bên cạnh dòng chữ được hoàn thành vào năm 88 tuổi, thể hiện ước vọng được sống thêm vài năm nữa. Tuy nhiên điều này đã không thành hiện thực, ông qua đời vào năm sau đó ở tuổi 85. Ngày cúng thất của ông được tổ chức trịnh trọng tại đền Rokuonji, và người đăng đàn tế, đọc kinh siêu thoát cho ông không ai khác mà chính là người bạn thân Daiten - người bạn tri âm đã cùng ông đồng hành qua kiếp người hơn sáu thập kỷ. Nếu không có Daiten luôn kề cận quan sát và ghi chép tường tận về cuộc đời, có lẽ hậu thế sẽ không có được nguồn tư liệu phong phú về cuộc đời Ito Jakuchu như vậy, nhất là khi nhiều tác phẩm của ông đã bị chôn vùi vì hỏa hoạn, động đất và chiến trận. Vào năm sau đó, Daiten cũng từ giã cõi đời, hội ngộ cùng người bạn thân bên kia thế giới.

Như những gì Daiten từng viết về ông, Ito Jakuchu ngoài vẽ ra không còn biết làm gì, không có tham vọng tiến thân, không mặn mà xa hoa vật chất, cả cuộc đời ông chỉ biết vẽ, ngày ngày tự rèn dũa bản thân, tâm hồn lang bạt trong cõi mộng của hội họa. Giữa thời Edo khi các họa phái đầy quyền lực thống trị, một Ito Jakuchu kì tài, dị biệt, ngang bướng đã không thỏa hiệp, tự mày mò tìm lối đi, tự tìm chỗ đứng cho bản thân mình. Ito Jakuchu từng nói rằng, sẽ mất cả ngàn năm để người đời có thể hiểu được hội họa của tôi, nhưng ông không biết rằng chỉ ba thế kỷ sau đó, hầu hết tác phẩm ông để lại đều sẽ được xem là quốc bảo nước Nhật, nằm trong những bộ sưu tập lừng danh thế giới.

Bức tranh “Lá chuối”, Ito Jakuchu, với triện thư “Senga Zeppitsu” góc dưới trái

Xin kết lại loạt bài này với một thành ngữ được đúc thành triện thư mà Ito Jakuchu thường dùng vào những năm cuối đời hàn vi, mà theo thiển ý của người dịch nó thể hiện thật tròn vẹn nhân cách và tâm ý ông dành cho hội họa:

Senga Zeppitsu (千画絶筆) Thiên họa tuyệt bút, có thể được hiểu là : “Hàng nghìn bức tranh, từng nét cọ đặt xuống như thể đó là lần cuối trong cuộc đời này.”








ITO JAKUCHU phần 4: Parinirvana by Phuong Nguyen

Gần bước sang độ tuổi lục tuần, Ito Jakuchu dành hết tâm tư cho thủy mặc, bút pháp của ông thời gian này nhiều phần giản lược so với những tác phẩm thời kỳ trước, ông ngày càng rời xa việc tả thực mà nghiêng về phần tả ý. Nét cọ của ông ngày càng phóng túng ít trau chuốt, ông phó mặc kết quả của bức tranh cho sức lan tỏa tự thân của mực và nước trên nền giấy gasenshi, và đặc biệt ở chính điểm này, tư tưởng của ông đã dịch chuyển từ lối vẽ cầu kỳ sang trọng của họa gia cung đình sang lối vẽ tả ý của tầng lớp văn nhân họa ở Trung Quốc, với bút pháp khảng khái bình dị, mượn đường nét giản lược thể hiện tâm ý và nội hàm bên trong vạn vật tự nhiên.

Tuy nhiên, các tranh thủy mặc của Ito Jakuchu dù đi theo đường lối tả ý về sau đều được xây dựng trên một nền tảng vững chắc vừa kỹ thuật dụng bút, vừa đôi mắt quan sát tinh tường được tôi luyện hơn ba mươi năm, nên đường nét trong tranh thô nhưng không vụng, giản kiệm mà không tỏ vẻ cẩu thả khinh suất. Đường nét dứt khoát, tạo hình đơn sơ, đậm nhiều hơn nhạt mà vẫn thể hiện được cốt cách thanh tao và sự mềm mại thanh thoát của sự vật tự nhiên. Tiêu biểu có thể kể đến bộ đôi Mẫu đơn và Quả Bầu, được ông sáng tác vào khoảng những năm 50 tuổi. Cả hai giống cây này đều đã được ông khắc họa trong bộ Doshoku Sai-e với lối công bút cầu kỳ sang trọng, miêu tả chính xác, tỉ mỉ hình dáng thật của chúng. Tuy nhiên trong phiên bản thủy mặc thì chúng lại mang một dáng hình hoàn toàn khác. Tranh ông thường không đa dạng sắc độ mà chỉ hai màu đen trắng, trong đó màu trắng đã là màu của giấy, với một sắc độ xám duy nhất trung hòa. Tạo hình hoa lá, hòn đá, quả bầu đều khá đơn giản với những nét nhất giác gãy gọn, thường mang tính hình học cao, gợi nhớ đến một bức tranh nổi tiếng của thiền sư Sengai Gibon, nơi ba hình thái căn bản vuông tròn, tam giác này là cái cấu thành nên thế giới rộng lớn, phong phú vô cùng trong vũ trụ.

Một số tranh thủy mặc của Ito Jakuchu có thể xếp vào dòng tranh thiền họa, bởi cách ông sắp xếp chủ đề bất đối xứng trên nền giấy mỏng mênh mông khoảng trống, kết hợp với bút pháp Nhất giác gợi nên cảm thức tàn khuyết sabi, bên cạnh thiên nhiên là chủ đề yêu thích, ông cũng thường vẽ chân dung những huyền thoại lớn như Bồ Đề Đạt Ma, Bát Tiên Bất Tử trong Đạo giáo, Hàn Sơn Thập Đắc… Trong đó không thể không nhắc đến bức tranh thủy mặc độc đáo và kì lạ nhất của ông là Thái Niết Bàn - Vegetable Nirvana, nay nằm tại bảo tàng quốc gia Kyoto. Bức tranh miêu tả lại một trong những khung cảnh kinh điển nhất trong điển tích Phật giáo khi Đức Phật Thích Ca nhập cõi Niết Bàn ở Kusinagara, dưới gốc hàng cổ thụ sa la. Ngài nằm xuống nghiêng về bên phải, đầu hướng về phương Bắc và viên tịch giữa đêm thâu giữa tiếng khóc than của tôn giả Anan, các vị Bồ Tát, Tỳ Kheo, cư sĩ, ngay cả muông thú cũng tề tựu trong nỗi thống khổ tiếc thương Đức Phật. Khung cảnh trầm mặc linh thiêng này lại mang một dáng dấp dị thường có phần hài hước trong phóng tác của Ito Jakuchu, bởi ông thay thế tất cả nhân vật thành các loại rau củ. Tám cội sala biến thành tám cây bắp, các Đại đức, tỳ kheo và muông thú mượn hình dáng vô vàn các loài cây trái từ đào, mận, chanh, bí ngô, cà tím đến gừng, khoai lang, măng và nấm… Ở phía trên góc trái ta nhác thấy hình ảnh hoàng hậu Maya trong hình ảnh một trái gấc đỏ! Và nằm ở trung tâm, Đức Phật Thích Ca chính là một củ cải trắng cỡ đại và Ngài đang nằm trên một chiếc rổ đan úp ngược, trên đầu củ cải vẫn còn ngọn lá, là một chi tiết Ito Jakuchu tinh tế không bỏ qua nhằm thể hiện chính xác tư thế Đức Phật nằm trong nguyên tác.

Sinh ra và lớn lên ở phố chợ trong một hàng rau nổi tiếng, và đã nhiều năm đích thân điều hành công việc giao thương như người chủ gia đình, Ito Jakuchu hẳn nhiên rất quen thuộc với các loại rau củ, nắm bắt tường tận không chỉ dáng hình mà đặc tính nội hàm của chúng. Và ông cũng nảy sinh một cảm tình đặc biệt với những thứ rau củ bình dân này. Ta thường nghĩ rằng thực vật là những tạo vật vô tri vô giác, nhưng trong tranh của Ito Jakuchu, những đường nét đậm nhạt của mực sumi đơn sơ mà sống động đã thổi hồn vào chúng, đặt vào chúng những xúc cảm rất con người, như lòng thành kính, nỗi tiếc thương…. Đây là một góc nhìn rất đặc trưng của người Nhật, của Thần đạo, rằng thần linh hiện diện khắp nơi trong tự nhiên; trong hòn sỏi, nắm đất, trong thác nước, mạch ngầm, trong ngọn cỏ, nhụy hoa, trong chiếc lá rơi, trong rong rêu, kiến mối, trong tự nhiên có tám triệu vị thần, và khi ông cho chúng đóng vai của chư vị thánh thần, ông trao gửi cho chúng một thứ hơn cả nhân tính, đó là Thần Tính. Việc lựa chọn củ cải làm hình tượng của Đức Thích Ca cũng là một sự thú vị, bởi trong ẩm thực của người Nhật, củ cải là một thứ rau củ khá thông dụng, ta có thể bào sợi, bào nhuyễn ăn sống cùng sushi, tàu hũ tươi, cũng có thể muối chua, và chắc chắn củ cải là thứ không thể thiếu trong các món súp và món hầm. Nói không ngoa, củ cải là thức rau quan trọng nhất trong bếp Nhật. Phật hiện diện ở khắp nơi, ngay cả trong chiếc rổ nhỏ chứa đựng các loại rau củ náu mình trong một góc tối và mát mẻ nơi chạn bếp.

Theo nhiều sử gia, động lực để Ito Jakuchu tạo ra tác phẩm này có lẽ đến vừa để tôn vinh lịch sử gia đình và hàng rau gia truyền, vừa để tưởng niệm cái chết của mẹ ông. Ito là một người rất trọng nghĩa tình gia đình, chẳng hạn như sự kiện cúng dường 33 bức tranh của bộ Doshoku Sai-e đã được sắp xếp sao cho trùng khớp với đám giỗ 33 năm khuất núi của cha ông. Để ủng hộ cho giả thiết này, một nhà nghiên cứu mang tên Hayashi Susumu đã chỉ ra rằng hình dáng chẻ đôi của củ cải nhìn như đôi chân là một biểu tượng cho sự phì nhiêu, sinh sản và bởi vậy mà nó là ẩn hình cho tính nữ. Bên cạnh đó, hình ảnh củ cải nằm trên chiếc rổ đan gợi nhớ đến một vị thần nữ trong truyện cổ Kojiki, vị thần này đã nhảy một điệu nhảy hết sức gợi tình trên một chiếc rổ, thu hút sự chú ý và dẫn dụ nữ thần mặt trời Amaterasu khỏi hang nơi nàng ẩn náu. Thêm vào đó, một củ cải hai chân vào thời Edo là một món đồ cúng dường thông dụng đến Thần Tài Daikokuten, người mang đến vinh hoa phú quý. Và theo đó, dụng ý của Ito Jakuchu trong bức tranh này có lẽ không chỉ đơn thuần là lòng tưởng nhớ đến người mẹ đã khuất, mà còn chứa đựng nỗi cầu mong rằng cơ nghiệp gia đình sẽ phát triển phồn thịnh. Dù đã tách rời khỏi hàng rau Masugen, trong lòng Jakuchu gia đình vẫn chiếm một vị trí hết sức quan trọng, mật thiết và ông luôn lặng lẽ dõi theo họ theo cách riêng của mình.

ITO JAKUCHU Phần 2: Tình bạn với tu sĩ Daiten và Doshoku Sai-e by Phuong Nguyen

Bên cạnh con đường nghệ thuật mà Ito Jakuchu đã dành trọn cuộc đời theo đuổi, cần kể đến con đường tu hành mà ông đã lặng lẽ bước đi từ trước khi nhận ra thiên hướng hội họa. Bẩm sinh là người có thiên hướng cô độc, thời còn trẻ ông khước từ những thú vui trần thế, không thích giao du tiệc rượu, trai gái, và cơ nghiệp gia đình ông được thừa kế lại đòi hỏi Ito Jakuchu trở thành con người hoàn toàn trái ngược bản chất. Sau một lần ông lui về ở ẩn sâu trong vùng núi Tamba, một toán gian thương đã âm mưu cướp lấy hàng rau Masugen khi người thừa tự không có mặt ở đó. Jakuchu không hề mong muốn rằng lối sống của mình gây phiền hà kẻ khác, nên khi vừa nhận được tin, ông tức tốc quay về Kyoto và thậm chí viện đến các cận thần của Shogun để dàn xếp những tranh chấp này. Gần hai thập kỷ sau đó, Ito Jakuchu dành toàn tâm toàn trí cho cơ nghiệp gia đình, mặc dù lối sống này là một gánh nặng tinh thần không hề nhỏ đối với con người chỉ muốn lánh xa trần thế. Như một kết quả hiển nhiên, ông tìm đến Phật giáo và cuộc sống tu hành đã an ủi linh hồn ông, nuôi dưỡng tình cảm trong ông, mang đến những cảm hứng sâu sắc mà sau này sẽ định hình đường lối nghệ thuật của ông. 

Vào độ tuổi 30, trong những ngày nhập môn tu tập Ito Jakuchu đã gặp người bạn thân và cũng là người hướng dẫn ông trên con đường tu hành: tu sĩ Rinzai (Lâm Tế tông) Dai Ten (1719 – 1801) Đây là một cột mốc rất quan trọng trong cuộc đời Ito Jakuchu, bởi Daiten không chỉ là người đã chỉ dạy Ito Jakuchu về Phật Pháp, Thiền học, ông còn là người viết biên khảo về Jakuchu dựa trên những quan sát và trao đổi tâm tình với người bạn thân của mình. Toàn bộ những nghiên cứu về Jakuchu hiện nay khá chi tiết và đầy đủ đều nhờ vào những văn bản mà Daiten để lại. Có thể nói, nếu không có Daiten, hẳn số phận của Ito Jakuchu đã hoàn toàn khác và hậu thế sẽ chẳng biét đến một họa gia kiệt xuất như thế. 

Cuối những năm 30 tuổi, chỉ vài năm trước khi người em Hakusai trưởng thành tiếp nhận hàng rau Masugen, Ito Jakuchu chuyển về sống tại dinh thự thuộc sở hữu của gia tộc bên dòng sông Kamo. Từ đây, phóng tầm mắt về phía đông là những triền đồi xanh mướt ở Higashiyama, dọc theo đó là con nước sông Kamo xuôi về phương nam bên cạnh cố đô tấp nập với những con phố thẳng tắp như bàn cờ. Xưởng vẽ này được ông dặt tên là  Shin’enkan, với chữ Shin nghĩa là “Tâm" và “en" là “viễn", mượn ý từ một câu thơ trong bài “Ẩm Tửu" được chấp bút bởi thi nhân nổi tiếng thời Tấn và Lưu Tống mang tên Đào Tiềm.  

Kết lư tại nhân cảnh, 
Nhi vô xa mã huyên. 
Vấn quân hà năng nhĩ? 
Tâm viễn địa tự thiên. 

Nhà cỏ giữa nhân cảnh, 
Không thấy ồn ngựa xe. 
Hỏi ông: "Sao được vậy ?" 
Lòng xa, đất tự xa. 

Chính tại nơi này, trong một thập kỷ tiếp theo ông sẽ dành trọn thời gian và tâm trí để hoàn thành kiệt tác để đời của mình. 

Xuyên suốt sự nghiệp Ito Jakuchu, chủ đề mà ông khai thác sâu rộng, gây được tiếng tăm lẫy lừng chính là những bức tranh đầy màu sắc về gà trống. Phần lớn những tranh hoa điểu thuộc trường phái Kano, Rinpa thời gian này kỹ thuật điêu luyện nhưng đều thể hiện chim muông trong trại thái “tĩnh", các tư thế của chúng thường tôn trọng quy ước và không có nhiều sự khác biệt giữa những loài khác nhau. Ito Jakuchu, là người học trực tiếp từ tự nhiên thì cho rằng mỗi loài gia cầm không chỉ đa dạng về hình dáng, lông vũ mà còn ở cách chúng giang cánh, bước đi, cái tinh túy của mỗi loài chính là ở sự khác biệt này... Nghiên cứu sâu rộng, tỉ mỉ đến cách sắp xếp từng chiếc lông vũ, ông chọn thể hiện chúng trong trạng thái “động", khi chuyển động của chúng dường như bị ngưng lại trong khoảnh khắc.  Tương truyền cảm hứng cho bộ tranh Doshoku Sai-e đã đến từ chính đàn gà được nuôi trong vườn nhà, ông đã nói với tu sĩ Daiten rằng: “những chiếc lông vũ của loài gia cầm tầm thường được nuôi thả đầy nơi thôn quê làng xã này mới rực rỡ và đẹp đẽ làm sao, ta sẽ bắt đầu tất cả từ đây.” 

Thông tin đầu tiên về bộ tranh này được được ghi nhận vào năm 1760, tu sĩ Daiten đã viết một thông báo đến giới mộ điệu rằng Ito Jakuchu sẽ vẽ nên ba mươi bức tranh hoa điểu để truyền lại cho hậu thế, và 15 bức đã hoàn thành. Chính Daiten là người đặt tên, viết lời giới thiệu cho từng bức tranh. Ito Jakuchu là người không hoạt ngôn, kín tiếng, nhưng nhờ có Daiten hiểu rõ tâm tư và tài năng của người bạn thân không tiếc lời ca ngợi mà danh tiếng về bộ tranh đã lan tỏa nhiều năm trước khi hoàn thành. Trong một biên khảo, ông đã trích dẫn lời Ito Jakuchu trong quá trình vẽ nên bộ tranh Doshoku Sai-e: 

“Những thứ ta gọi là tranh bây giờ chẳng khác gì bản sao của những bản sao, tôi chưa từng thấy một bức tranh được vẽ dựa trên những sinh vật sống. Các họa gia đương thời chỉ nghĩ xem với những kỹ thuật cóp nhặt được thì nên vẽ làm sao để tranh bán chạy, nhưng tôi đến nay vẫn chưa thấy một ai thể hiện được một kỹ thuật và tinh thần siêu việt. Tôi khác họ, bởi tôi có những khát vọng cao cả hơn thế.” 

Sau đó, Daiten chia sẻ thêm rằng, “Jakuchu không có một tài năng nào hơn ngoài hội họa, ông không có tham vọng nào khác, cũng không bày tỏ sự hứng thú với lạc thú ở đời mà chỉ ngày ngày nỗ lực rèn luyện bản thân, mong muốn qua những bức tranh này ta có thể chạm đến một thế giới huyền ảo. Chính vì thế mà Jakuchu có thể tái hiện thật chân thực và sinh động muôn loài, không chỉ hình dáng bên ngoài của chúng mà cả linh hồn tiềm ẩn bên trong. Để thể hiện được sức sống của chúng, ông khéo léo sắp đặt bố cục, tập trung vào từng chi tiết nhỏ bé với những màu sắc đẹp đẽ và rực rỡ nhất. Cung cách làm việc này, là cái mà những thợ vẽ ta đấy đầy rẫy ngày nay không thể nào sao chép nổi.” 

Bộ tranh Doshoku Sai-e gồm có ba bức Thích Ca Tam Thánh và 30 tấm tranh lụa lớn thể hiện muôn loài rực rỡ được vẽ theo phong cách tranh hoa điểu của hội họa cung đình Trung Hoa. Trong bộ tranh này vốn có thêm vài tác phẩm thủy mặc, nhưng đến cuối cùng Ito Jakuchu đã loại chúng ra và chỉ tập trung vào tranh màu sử dụng màu khoáng vẽ trên mặt lụa. Khác với các tác phẩm chủ đề tôn giáo thường khắc họa chân dung chư Phật mười phương, cõi Tịnh Độ cùng các điển tích Phật Giáo, các sinh vật huyền thoại cao quý như long phụng... các bức tranh của Ito Jakuchu lại hướng về một thế giới tự nhiên gần gũi hơn với con người trần thế. Đặt chúng trong một khung cảnh mô tả lại bầu sinh quyển tự nhiên, ông khắc họa các loại gia cầm từ gà, vịt ngỗng đến các loài biết bay chim như sẻ, chìa vôi, bên cạnh đó còn có côn trùng, lưỡng cư, các sinh vật hải dương gồm các loài cá thường gặp quanh vùng biển Nhật Bản và loài giáp xác. Ito Jakuchu vốn sinh trưởng ở phố chợ tấp nập hàng rau hàng cá nên hẳn từ đây ông có được đôi mắt quan sát tự nhiên sắc sảo, nhưng bên cạnh đó bộ tranh này còn cho thấy tư tưởng Thiền trong ông, khi ông chọn thể hiện những sự vật mắt thấy tai nghe, những sinh vật bé nhỏ mà ta thường lướt qua trong cuộc sống thường nhật.  

Ito Jakuchu bắt đầu vẽ bộ tranh vào khoảng năm 1755 và ông mất ba năm để hoàn thành 12 bức tranh đầu tiên, 12 bức tiếp theo cùng bộ Thích Ca Tham Thánh (gồm có ba bức tranh rời thể hiện Đức Thích Ca Mâu Ni ngự trên đài sen, bên cạnh là Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử xanh và Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà) trong vòng 4,5 năm sau đó, và vào khoảng năm 1770, ông hoàn thành 6 bức cuối cùng. Bộ tranh Thích Ca Tam Thánh, theo lời Ito Jakuchu, là lâm mô tác phẩm cùng tên của một họa gia chuyên vẽ tranh Phật thời Tống tên Chang Ssu-kung. Bộ tranh được trưng bày lần đầu tiên vào năm 1775 tại tu viện Shokokuji, nơi Daiten trụ trì. Bộ Thích Ca Tam Thánh được treo ở trung tâm và 30 bức còn lại xung quanh trong đại điện, ngụ ý muôn loài quây quần cùng nhau ca tụng cõi Tịnh Độ và những bài giảng của Phật Thích Ca. Đây là một motif khởi nguồn từ thời Kamakura, và hẳn Ito Jakuchu đã dựa theo đó để thực hiện bộ tranh của mình ở một quy mô vô tiền khoán hậu. 33 bức tranh tổng cộng cũng là một con số quan trọng trong Phật Giáo, bởi Quán Thế Âm Bồ Tát vốn được thờ phụng rộng rãi trong thời Edo cũng có 33 hóa thân. Là một cư sĩ, Ito Jakuchu hẳn không ngẫu nhiên mà chọn hoàn thành bộ tranh với con số này. 

Trong chứng thư mà có lẽ Daiten đã chấp bút thay cho người bạn của mình (Ito Jakuchu khá vụng về chữ nghĩa) có nêu lên rằng, “Từ khi nhe nhóm ý tưởng trong đầu, tôi đã biết rằng bộ tranh Doshoku Sai-e này không để dành cho thế giới trần tục (có lẽ ý ông là không để buôn bán nhằm sinh lợi cho bản thân) mà dể dâng lên chư thần. Nay tôi xin dâng toàn bộ bộ tranh này đến thiền viện Shokokuji, mong rằng với sự bảo hộ của thiền viện bộ tranh này sẽ được gìn giữ cẩn thận cho hậu thế.” 

Bên cạnh đó, ông còn có một yêu sách nhỏ là sẽ được chôn cất tại Shokokuji sau khi qua đời. Quyết định dâng tặng bộ tranh này đến thiền viện và mong muốn được an táng tại đó có lẽ đến từ cái chết đột ngột của người em trai Sojaku, bởi chứng thư kia được viết chỉ 11 ngày sau tang lễ. Là một Phật tử, Ito Jakuchu có lẽ đã rất trăn trở về cuộc đời hữu hạn này và muốn chuẩn bị hậu sự của mình thật chu đáo để ông có thể an lòng tập trung vào công việc sáng tạo trong những tháng năm còn lại của cuộc đời. 

Sau sự kiện ra mắt bộ tranh tại thiền viện Shokokuji, danh tiếng của Ito Jakuchu nay càng lan xa, vô số họa nhân cùng thời và các ngài chức cao trọng vọng đã thân chinh đến tận Kyoto để tận mắt chiêm ngưỡng. Một trong số những người mến mộ tài năng của ông là hoàng tử Nikko Jungogu Kojun, con trai Thiên Hoàng Nakamikado. Hoàng tử từng theo học Hán văn từ Daiten và khi biết đến bộ tranh Doshoku Sai-e, ông đã đến thăm thiền viện vào năm 1783, toàn bộ các bức tranh vốn ngày thường được cuộn lại và bảo quản trong kho bảo vật đã được treo lên để hoàng tử thưởng lãm. 

Bộ tranh Doshoku Sai-e may mắn còn nguyên vẹn sau trận đại hỏa hoạn năm 1788 và một cơn địa chấn khủng khiếp vào năm 1830. Tuy nhiên thiền viện Shokokuji đã bị hủy hoại phần lớn, dù được phục dựng nhưng không bao giờ có lại sức ảnh hưởng lớn rộng khi xưa. Vào năm 1889, thị trưởng Kyoto đã quyết định trao tặng toàn bộ 33 bức tranh Doshoku Sai-e đến Hoàng Gia Nhật Bản, như một lời cảm tạ sau khi Hoàng Gia chi một khoản tiền lớn để tu bổ thiền viện Shokokuji. Điều này có nghĩa rằng không những bộ tranh nay sẽ được bảo tồn thật chu đáo, nó sẽ không rơi vào tay người ngoại quốc. Theo một số ghi chép, hai nhà sưu tập lớn đến từ phương Tây là William Sturgis Bigelow (Người sưu tập rất nhiều tác phẩm khác của Ito Jakuchu và là người đầu tiên trưng bày các bức tranh của ông tại Bảo tàng mỹ thuật Boston) và Ernest Fenollosa đã từng đề nghị mua lại bộ tranh Doshoku Sai-e nhưng trụ trì khi đó của Shokokuji đã kiên quyết từ chối. 

Năm 1926 là năm đầu tiên bộ tranh này được trưng bày tại Bảo tàng Hoàng Gia Nhật Bản mở cửa rộng rãi đến công chúng. Và năm 1989 là năm đầu tiên tại Mỹ có một triển lãm quy mô lớn dành riêng cho một họa gia Nhật Bản - Ito Jakuchu, 13 trong số 33 cuộn tranh được trưng bày, mở đầu cho những nghiên cứu sâu rộng hơn về cuộc đời Jakuchu, góp phần đưa tên tuổi của ông và bộ tranh Doshoku Sai-e ra khỏi biên giới nước Nhật.  

ITO JAKUCHU (PHẦN 1): Tổng quan về cuộc đời by Phuong Nguyen

Title: White Plum Blossoms and Moon

Artist: Itō Jakuchū (Japanese, 1716–1800)
Period: Edo period (1615–1868)
Date: 1755
Culture: Japan
Medium: Hanging scroll; ink and color on silk

Ito Jakuchu | 伊藤 若冲 (1716 - 1800) hiện được xem là một trong những danh hoạ quốc bảo của Nhật Bản. Mặc dù sở hữu bút pháp điêu luyện người đương thời hiếm ai sánh bằng và không dễ dàng sao chép, nhưng Ito Jakuchu vốn không phải là con nhà nòi và bắt đầu sự nghiệp hội hoạ khá muộn. Ông sinh ra và lớn lên vào giai đoạn trung kỳ Edo, khi nước Nhật đã bế quan toả cảng, tại quận Nishiki vốn là phố chợ sầm uất lâu đời tại Kyoto. Gia đình ông là hàng rau có tiếng đã hoạt động qua ba thế hệ, và Ito Jakuchu, thân là con trưởng, sẽ là người thừa kế thứ tư. Vì lẽ đó mà cuộc đời thanh thiếu niên của ông không có nhiều ghi chép, ông vốn chỉ học gảy bàn tính, kỹ năng giao thương, quản lý tiền bạc là những kỹ năng cần thiết cho con buôn kẻ chợ. Khi Ito Jakuchu vừa tròn 23 tuổi thì cha ông qua đời và ông chính thức trở thành Masugen đời thứ tư, thay cha gánh vác cơ nghiệp. Nhưng bản tính ông có phần ẩn dật không hợp chốn thương trường, cũng không đam mê vật chất lẫn những thú vui trai gái xa hoa. Ngoài việc đảm đương cơ nghiệp gia đình (mà ông không mấy mặn mà), ông thường xuyên lánh vào núi ở những thiền tự hẻo lánh, có khi mấy tháng trời biền biệt không thư gửi, gia đình ngỡ ông đã mắc bệnh qua đời.

Không rõ ông bắt đầu vẽ từ khi nào, nhưng chắc chắn không sớm như những hoạ gia cùng thời, chẳng hạn Maruyama Okyo vốn đã thể hiện thiên phú hội hoạ từ rất trẻ. Nhiều ghi chép cho rằng ông bắt đầu vẽ khoảng năm 20 - 25 tuổi, như một thú vui quạnh quẽ trong những ngày tháng tu hành nơi thâm sơn cùng cốc. Theo những ghi chép của tu sĩ Daiten (1745-1805) người bạn thân thiết của Ito Jakuchu cho ta thấy, ngoài việc vẽ tranh, Ito Jakuchu không bày tỏ sự hứng thú đối với bất kì điều gì khác. Ông không thích học, viết chữ rất vụng, những kỹ năng cần thiết để quản lý hàng rau Masugen dù đều đã học qua nhưng ông lại khá vất vả khi phải bắt tay vào công việc đó. Ông càng không mặn mà với lạc thú, không thích đi đến tửu lầu hay tham dự tiệc ra mắt, vật chất xa hoa cũng không đoái hoài. Bản tính ông chỉ thích làm việc trong cô độc, ngày qua ngày miệt mài vẽ tranh, lấy việc nhìn thấy đôi tay ngày càng trở nên điêu luyện làm niềm vui.

Ba mươi năm đắm chìm trong hội hoạ với ông trôi đi thật nhanh như thể chỉ thoáng qua một ngày. Vào thời điểm này hầu hết các hoạ sư thường xuất thân hoặc theo học trường phái Kano hoặc Rimpa, vốn là hai trường phái danh tiếng nhận được rất nhiều hỗ trợ về tiền bạc lẫn quyền lực, nhưng ông cho rằng những hoạ gia cùng thời chỉ chăm chăm vào việc phô diễn kỹ năng, tái hiện cảnh sắc hời hợt, vẽ theo thị hiếu của giới thượng lưu nhằm leo lên nấc thang danh vọng. Họ không còn quan sát tự nhiên mà chỉ sao chép thầy thợ một cách cứng nhắc, vì thế không thể truyền đạt, nắm bắt được cái thần hồn của thiên nhiên sống động. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là Ito Jakuchu không hề phủ nhận trường phái Kano, cái ông chỉ trích là thái độ cũng như mục đích không đứng đắn của nhiều hoạ sĩ đã đẩy trường phái này vào lối mòn dẫn đến suy tàn. Ito Jakuchu không đoái hoài đến tiền tài danh vọng, ông muốn trở nên xuất chúng, hơn nữa ông cho rằng dù có cố đến đâu ông cũng không thể sánh bằng những bậc thầy khởi sinh trường phái Kano, ông phải tìm ra con đường riêng cho bản thân mình. Tuy vậy Jakuchu vốn là một người xuất thân không dính dáng gì đến hội hoạ, ông như một người đi lạc trong rừng thẳm mà không có lấy một chiếc la bàn, thành ra những mối quan hệ thân tình cũng như những người thầy đầu tiên chính là tầng đá vững chãi đặt nền móng cho sự nghiệp về sau.

Danh tính hoạ sư ông theo học chưa bao giờ được xác thực, nhưng dấu tích triện thư cũng như bút danh ông dùng trong thời gian đó gợi ý ông đã từng theo học một học giả đương thời là Ooka Shunboku. Ông là một trong những học giả hiếm hoi nghiên cứu về lịch sử phát triển của hội hoạ Trung Hoa tại Kyoto, và đã tái hiện nhiều tác phẩm của các danh hoạ xưa nhằm mục đích khảo cứu cũng như hoàn thiện bộ sách đại cương gồm 6 quyển in mộc bản "ehon" về Trung Quốc hoạ. Có lẽ chính từ Shunboku, Jakuchu đã học hỏi phong cách hội hoạ của các hoạ sư Trung Hoa trước đó một cách tường tận để rồi từ từ phát triển nên phong cách cá nhân độc lập khỏi trường phái Kano. Một trong những người bạn thân tình nhất với Jakuchu là tu sĩ Daiten, họ kết giao từ những ngày tháng tu hành. Về sau này Daiten trở thành trụ trì ở chùa Shokoku-ji tại Kyoto và nhờ đây mà Jakuchu đã được tận mục sở thị nhiều bức hoạ Trung Hoa nằm trong kho bảo vật mà thường dân không thể tiếp cận. Daiten cũng chính là người đã nghĩ ra Pháp danh "Jakuchu" - "Nhược xung" cho người bạn thân của mình. Jakuchu có nghĩa là "hư không", được trích từ đoạn 45 trong Đạo Đức Kinh: Đại doanh nhược xung, kì dụng bất cùng.

Tuy vậy, nỗ lực hệ thống một cách đầy đủ các tác phẩm thời kì đầu của Ito Jakuchu hầu hết chỉ là phỏng đoán, mang tính ước lệ bởi một đặc thù là các hoạ sĩ thời đó không đề ngày tháng trên tranh mà chỉ có thể căn cứ theo dấu triện, thường là biệt hiệu, vốn hay thay đổi. Thêm vào đó với bản tính cầu toàn, Ito Jakuchu có lẽ không muốn để thế giới nhìn thấy những tác phẩm xưa trước khi tài năng của ông đến độ chín muồi. Hơn nữa, sau vụ đại hoả hoạn thiêu rụi phần lớn cố đô Kyoto 1788, cả hàng rau Masugen và xưởng vẽ của ông đều đã bị san bằng, và trong đám tro tàn đó có lẽ là những tác phẩm đời đầu của ông. Những tác phẩm cũ nhất có năm sáng tác đáng tin cậy là năm 1755, khi ông đã quá bốn mươi tuổi. Đây là khi người con thứ trong gia tộc Ito là Hakusai chấp nhận thừa kế hàng rau Masugen, và nhờ vậy mà Jakuchu đã được giải thoát khỏi trách nhiệm gánh vác cơ nghiệp để toàn tâm toàn ý theo đuổi con đường hội hoạ.

Bức Hoa mận dưới trăng (1755) là một trong ba tác phẩm đầu tiên có thể tra cứu được năm sáng tác. Cảnh đêm huyền hoặc được thắp sáng bởi những đoá mận trắng bung nở dưới ánh trăng, và đối lập với sự mong manh của hoa là đường nét gồ ghề, lởm chởm gợi tả một cổ thụ già. Bức vẽ thứ hai là "Đôi Phượng Hoàng trước cảnh bình minh" (1755) là tác phẩm tranh trục cuộn lớn nhất trong tất cả những tranh hoa điểu của ông. Là một hoạ sư chuyên vẽ về thiên nhiên, ông rất xem trọng việc quan sát và ghi chép cách muôn loài sinh hoạt nhằm tái hiện được chúng sống động và chân thật nhất, tuy nhiên, vì Phượng Hoàng là loài chim thần thoại không có thực, ông viết trong lạc khoản rằng "đã vẽ chúng thật phóng túng và thả từng nét cọ đi theo trí tưởng tượng". Tranh vẽ về chim Phụng từng là một chủ đề khá quan trọng và được ưa chuộng bởi các hoạ gia cung đình Trung Hoa. Nhờ vào mối quan hệ thân tình với chùa Shokokuji, Ito Jakuchu có thể đã xem vài bức tranh vẽ Phượng Hoàng từ thời Minh được lưu trữ trong kho bảo vật để tìm cảm hứng. Bức thứ ba vẽ một con hổ, được sáng tác cùng năm 1755. Cũng giống như bức vẽ Phượng Hoàng, hổ khi đó không có tại Nhật Bản, nên Ito Jakuchu đã tham khảo những bức tranh hổ được sáng tác trước đó bởi những hoạ gia cung đình Trung Quốc. Có thể thấy sức ảnh hưởng từ hội hoạ Trung Hoa là một thành tố quan trọng trong việc định hình phong cách cá nhân Ito Jakuchu, không thể lẫn với trường phái nào khác tại Nhật Bản lúc bấy giờ.

Ở tuổi 40, Jakuchu đã hình thành bản sắc cá nhân với kỹ thuật điêu luyện, chặt chẽ, chủ đề phong phú nhưng bút pháp nhất quán, không hỗn loạn. Ông tự nhận rằng điều duy nhất khiến ông khác biệt so với những hoạ gia khác chính là khả năng tái hiện thiên nhiên sinh động rực rỡ, và người thầy dạy cho ông điều này không gì khác ngoài chính tự nhiên. Không còn trách nhiệm với gia tộc nên trong những năm này ông đã cho ra một số lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú, từ tranh cuộn đến cửa trượt thư phòng, bình phong, trước khi dành toàn bộ tâm tư vào thực hiện kiệt tác để đời - bộ tranh Doshoku sai-e (The Colorful Realm of Living Beings) gồm 30 trục cuộn, thể hiện muôn loài rực rỡ sống động trong bầu sinh quyển tự nhiên của chúng. Khi hoàn thành kiệt tác này, ông đã hiến tặng toàn bộ cho Thiền viện Shokoku-ji tại Kyoto cũng chính là nơi người bạn vong niên Daiten trụ trì. Và nguyện vọng của ông đã thành hiện thực. Toàn bộ bộ tranh Doshoku sai-e nay là di sản quốc gia nằm trong bộ sưu tập của hoàng gia Nhật Bản.

Lâm mô "Two roosters and a hen", Ito Jakuchu by Phuong Nguyen

Kế thừa và nuôi dưỡng những điều đẹp đẽ từ quá khứ.

Phương lâm mô bức tranh "Two roosters and a Hen" (trên), hoạ bởi Ito Jakuchu, 1796 (dưới)

Mực mài trên giấy Fabriano artistico

Bức tranh gốc được vẽ vào những năm cuối đời khi ông khoảng 80 tuổi và đã sử dụng nghệ danh Beito-o (lão già vẽ tranh đổi gạo)