柿渋 Kakishibu - Màu nâu ấm áp của quả hồng xanh by Phuong Nguyen

Từ khi vẽ bộ tranh minh họa Haiku vào đầu năm 2020, mình bắt đầu ứng dụng kỹ thuật nhuộm với nước trà vào các bức tranh để “lên tuổi” giấy nhằm đạt được cảm giác xưa cũ - wabisabi, và từ đây niềm hứng thú với những sắc nhuộm tự nhiên cổ xưa dần nảy nở. Ghi chép lại là một cách học sâu hơn. Các bài viết và hình ảnh được tổng hợp từ nhiều nguồn, có trích dẫn cụ thể ở cuối bài.

Sakai Hōitsu, Persimmon Tree - 1816. Đọc thêm tại MetMuseum

Sakai Hōitsu, Persimmon Tree - 1816. Đọc thêm tại MetMuseum

柿 Kaki - quả hồng, 渋 Shibu - nghĩa là vị chát (astringent, là cảm vị thứ 6 của vị giác theo kinh Vệ-Đà Ayurveda. Nó diễn tả cảm giác khô hanh trong khoang miệng, lưỡi tê lấm tấm khi ta nếm phải những thứ có chứa tannin, như trà, rượu, quả lựu, hoặc là vị quả hồng chưa chín)

Ở Nhật thường gặp nhất có lẽ là cây anh đào, sau đó là đến cây mận, rồi là cây hồng. Về những miền thôn quê Nhật Bản, ta dễ gặp hình ảnh cây hồng trĩu quả mỗi độ thu về ở sân sau vườn nhà, đôi khi chúng mọc dại quạnh quẽ giữa những cánh đồng hoang, hay lang thang ở bìa rừng nơi những quả hồng chín như những chấm màu đỏ chu sa rực rỡ trên cảnh sắc ẩm ướt và lạnh lẽo khi mùa đông chớm đến. Quả hồng chín thơm mềm, ngọt ngây, chắc chắn đủ khiến cảm vị của con người phải ngây ngất mê. Nhưng vị ngon chỉ là một trong những lí do khiến cây hồng được trồng đại trà như vậy. Những quả hồng xanh non tạo ra thứ thuốc nhuộm đặc sắc, kì diệu phủ màu nâu trầm lên mọi thứ từ giấy vẽ, vải vóc đến đồ nội thất gỗ, là một màu sắc đẹp đẽ và đặc trưng trong thẩm mỹ Nhật Bản.

Kakishibu là một kỹ thuật nhuộm tự nhiên và cổ xưa đã có truyền thống lâu đời ở Nhật Bản từ thế kỷ 13, được chiết xuất từ quả hồng non phơi khô, nước nhuộm được nấu từ những quả hồng đây rồi sẽ được thanh lọc và cô đọng, rồi để cho chúng lên tuổi từ 2 đến 5 năm mới sẵn sàng được đưa vào ứng dụng. Về mặt cơ học, kakishibu chứa nhiều tannin giống như nước trà, vì thế nó không hẳn là một loại thuốc nhuộm bởi màu nâu của kakishibu là do những phân tử tannin kết hợp với nhau rồi phủ lên sợi tơ chứ không không bện vào như những loại thuốc nhuộm khác. Chính xác hơn nó là một lớp phủ. Và cũng chính vì tannin, những sản phẩm được nhuộm từ kakishibu có một khả năng rất nhiệm màu: lên tuổi cùng với thời gian. Để càng lâu màu nâu trầm của kakishibu càng trở nên tinh tế và sâu lắng, khác với khi ta vừa lấy chúng ra khỏi bể thuốc nhuộm, và chính nhờ đặc trưng này mà nhiều trà thất hay tư phòng dùng tranh trang trí, thậm chí là giấy shoji dát cửa đã qua nước nhuộm hồng chát, bởi nó mang lại một cảm giác ấm áp lặng yên, và chúng cũng như ta, đang thay đổi từng chút một khi thời gian đi qua.

Các sắc độ nhuộm kakishibu trên gỗ từ 1 - 7 lớp, lên tuổi 1 tháng

Các sắc độ nhuộm kakishibu trên gỗ từ 1 - 7 lớp, lên tuổi 1 tháng

Kakishibu được chiết xuất từ những quả hồng non khi chúng hẵng còn xanh, sau quá trình chưng cất, thành phẩm cuối cùng mang màu nâu trầm amber, nhờ vào tính phủ màu mạnh mẽ, không cần thêm chất cẩn màu (mordant) và khả năng kháng khuẩn cao, nó được ứng dụng rộng rãi từ các mặt hàng mỹ nghệ cho đến nông, ngư nghiệp. Không chỉ để nhuộm vải và giấy washi, nó còn được dùng như lớp lót (primer) cho các mặt hàng sơn mài Urushi truyền thống, nhờ có tính chống thấm nước nên nó còn được phủ lên dù wasaga, các loại nông cụ và lưới đánh cá để tạo một lớp màng bảo vệ tăng sức bền, chống côn trùng và mối mọt.

Một chiếc dù wasaga truyền thống làm từ tre và giấy washi được nhuộm kakishibu, vừa có một sắc nâu đỏ đẹp mắt, vừa chống thấm nước.

Một chiếc dù wasaga truyền thống làm từ tre và giấy washi được nhuộm kakishibu, vừa có một sắc nâu đỏ đẹp mắt, vừa chống thấm nước.

Giấy washi từ dâu tằm (kozo) được nhuộm với Kakishibu, chỉ nặng khoảng 110gsm, và kích cỡ vào khoảng 96 x 180cm, nhưng có giá đến ¥16,940.00 Yen (Khoảng 170$) Xem thêm tại trang Ozuwashi

Giấy washi từ dâu tằm (kozo) được nhuộm với Kakishibu, chỉ nặng khoảng 110gsm, và kích cỡ vào khoảng 96 x 180cm, nhưng có giá đến ¥16,940.00 Yen (Khoảng 170$) Xem thêm tại trang Ozuwashi

Kakishibu không phải là một loại thuốc nhuộm khó chế biến, không cần thêm hóa chất, không cần gia nhiệt (vốn được dùng cùng nhiều phương cách nhuộm khác) và không có nhưng cũng như người anh em tannin khác là rượu vang, quy trình lên men tự nhiên cần nhiều thời gian để đạt đến độ “chín” của riêng nó. Nhuộm Kakishibu đầu tiên và tất nhiên, ta cần có thật nhiều hồng non, phơi khô cho đến khi màu xanh ngả thành màu cam vàng đẹp mắt, rồi ta sẽ giã nát, dùng vải thưa bọc lại để tránh ruồi nhặng, để cho chúng lên men ít nhất 6 tháng, rồi chắt lọc dung dịch sau quá trình lên men đó, để cho chúng tiếp tục lên tuổi từ 5 - 7 năm. Quá trình lên tuổi này không dừng lại khi kakishibu được đóng gói, mà còn đồng hành cùng thứ sản phẩm chúng sẽ phủ màu để tạo nên màu sắc thâm trầm tuyệt đẹp của thời gian.

Là một chất nhuộm có gốc tự nhiên, không phản ứng hóa học, không sinh độc tố, kakishibu còn được dùng để nhuộm các túi lọc sake - 酒袋 Saka-bukuro - một loại túi được dệt từ sợi bông thô dùng để chắt lọc Shizuku sake hay còn gọi là “sake nhỏ giọt”, một loại sake hiếm thấy và đắt đỏ. Khác với quy trình tinh chế sake thông thường khi rượu được ép ra, với shizuku sake, nguyên liệu thô sau quá trình ủ lên men được cho vào túi lọc saka-bukuro, lợi dụng trọng lực để “ép” sake thơm ngon rơi ra khỏi chiếc túi ấy, từng giọt, từng giọt một. Cũng giống như rượu vang ngon dở còn nhờ vào loại gỗ tạo nên chiếc thùng nơi nó được ủ, chiếc túi dùng để lên men và chiết xuất sake cũng đóng một vai trò quan trọng. Kakishibu không chỉ tạo nên sắc nâu đẹp đẽ sang trọng như da thuộc, càng cũ càng đẹp, nó còn góp phần bảo vệ sợi bông và ắt hẳn cũng góp một phần hương vị vào những giọt sake ấy.

Túi lọc sake Saka-Bukuro truyền thống mang màu nâu trầm “signature” của nước nhuộm quả hồng. Xem thêm tại Nada-ken

Túi lọc sake Saka-Bukuro truyền thống mang màu nâu trầm “signature” của nước nhuộm quả hồng. Xem thêm tại Nada-ken

Kakishibu, cũng như các phương pháp nhuộm truyền thống có chiết xuất từ tự nhiên, dần thành thất truyền dưới sự bành trướng của sự cơ giới hóa và những phương pháp nhuộm hóa học tân tiến, linh hoạt và nhanh chóng hơn đến từ phương Tây. Vùng Onomichi tại Hiroshima từng là trong ba địa phương trồng hồng lớn nhất Nhật Bản và cũng là nơi phần lớn thuốc nhuộm kakishibu được tạo ra. Tuy nhiên sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhu cầu dùng thuốc nhuộm giảm dần, rất nhiều cơ sở sản xuất lâm vào cảnh phá sản, và như nhiều kỹ thuật truyền thống khác thường mang tính gia truyền, không còn ai kế thừa sẽ lâm vào cảnh tuyệt diệt. Người không còn, nhưng cảnh vẫn còn, rất nhiều cánh đồng trồng hồng dù không được chăm sóc vẫn sinh sôi mạnh mẽ, xung quanh Onomichi có rất nhiều hồng cổ thụ hơn 100 năm tuổi. Với xu hướng con người đang dần quay trở lại với thiên nhiên, kakishibu đang dần lấy lại sức sống cũ. Vào mùa thu hoạch, nô nức cảnh những trang trại nhỏ buôn bán hồng xanh, phơi chúng cho đến khi ngả màu cam mà thực vị vẫn còn đắng chát. Đối với địa phương Onomichi bây giờ, kỹ thuật chế tạo thuốc nhuộm cũng là một “tourist attraction” về mặt văn hóa. Bản thân nơi này cũng là một vùng hải cảng bên sườn đồi xanh mướt rất đẹp, có phần gợi nhớ đến eo biển Liguria ở Ý.

Kakishibu cũng được các nghệ sĩ đương đại theo đuổi cái đẹp phi tuyến tính và đậm tính truyền thống gìn giữ. Masamichi Terada (1935) là một nghệ nhân chuyên sử dụng màu hồng chát và ông thể nghiệm chúng trên nhiều chất liệu đa dạng từ sợi bông, dâu tằm đến lụa, tre nứa và cả đồ gỗ. Một ngày nọ vợ ông mang về một chiếc túi lọc sake và ông đã bị màu nâu trầm ấy mê hoặc. Ông nhận ra rằng những kiến thức về kakishibu đang dần mai một và khó tiếp cận bởi đại chúng, ông đã quyết tâm theo đuổi, học hỏi và bảo tồn kỹ thuật nhuộm truyền thống này. Dưới đây là một số tác phẩm do ông làm ra cùng với những quả hồng chát. Thật dễ hiểu vì sao ông lại đam mê sắc màu này đến thế.

Hiện nay, thuốc nhuộm Kakishibu có thể mua được dễ dàng trên các trang bán hàng đại chúng như Amazon Japan, etsy… hàng chính hãng nội địa đến từ địa phương Onomichi hẳn hoi với giá khá hạt dẻ. Kakishibu có nhiều lợi điểm:

  • đầu tiên là cô đọng, không cần phải ninh nấu hay thêm chất hóa học gì (với một người dốt hóa như Phương đây là một điểm cộng lớn) để cẩn màu, mà trái lại, ta phải pha loãng nó ra để đạt được sắc độ mong muốn bởi kakishibu cô đọng đủ mạnh để nhuộm gỗ.

  • Kakishibu là một thuốc nhuộm gốc nước, có thể rửa sạch tay hay cọ nhuộm dễ dàng, không cần dùng dung môi để gột rửa.

  • lợi ích tự nhiên, như chống thấm nước, chống mối mọt, nấm mốc, và đuổi côn trùng.

  • màu sắc lên tuổi cùng thời gian, không sợ hết hạn sử dụng, để càng lâu, màu nâu càng đẹp.

  • tiết kiệm nước. Một ít thuốc nhuộm đủ dùng cho một thời gian dài và không cần nhiều nước như những phương pháp nhuộm hóa học vốn tạo ra nhiều nước thải. Một bể nhuộm kakishibu không còn dùng được chỉ khi nó đã cạn sạch.

  • timeless. Đây là một sắc màu rất đẹp và sẽ gây nhiều ngạc nhiên cùng với thời gian. Thời gian lên tuổi trung bình của màu hồng chát là từ 1-2 năm sau khi nhuộm. Còn lâu hơn như vậy thì sao, có lẽ Phương phải trồng ngay một cây hồng, hay mua ngay một túi thuốc nhuộm từ Onomichi để biết.


観花 - Thưởng hoa by Phuong Nguyen

観花 - Cherry Blossom Viewing, Takeuchi Seiho, 1898 (Meiji 31)

観花 - Cherry Blossom Viewing, Takeuchi Seiho, 1898 (Meiji 31)

Gần đây mình đang vẽ nhiều xương xẩu, trong đầu lúc nào cũng lúc nhúc toàn xương với cơ, nhìn bàn tay mà mắt như có tia X tưởng tượng coi dưới thịt dưới da đó cục xương chuyển động thế nào. Vì hiểu biết chưa sâu, bàn tay chưa quen cảm giác, nên khi vẽ vẫn phải bám sát reference, và hôm nay bỗng nhiên xẹt ngang bức tranh chưa từng thấy này của cụ Seiho. Một bộ xương được vẽ phóng túng làm sao, từ đây mà đắp da đắp thịt vào sẽ thành một dung nhan hết sức dị dạng, nhưng vậy thì sao, vẫn thể hiện được sự uyển chuyển, thướt tha và say đắm của một con người. Vẽ thực quá có lẽ cũng là giới hạn của ta. Tình cảm khi sục sôi cũng có thể làm méo mó nhận thức cơ mà. Nhìn cho thật kỹ vào đây, một con người hay không là con người, chẳng còn quần áo, chẳng còn thịt da, linh hồn có phần đã thoát xác phần còn đây, say sưa múa quạt dưới cơn mưa hoa anh đào. Ở Ý bây giờ cũng là mùa xuân, nhưng là mùa xuân cấm vận, hoa đào vừa thấy đêm kia bung nở cạnh con đường sầm uất nay đã trổ đầy lá non mất rồi. Có lẽ đó là điều đáng tiếc nhất bên cạnh vô số những điều đáng tiếc đã xảy ra trong những năm qua. Một mùa xuân đi qua như vô hình...

Có một lời truyền miệng rằng để vẽ bức tranh lạ lùng như một sự giao thoa giữa thực và giả này, Seiho đã chăm chút, tỉ mẩn vẽ lại từ tiêu bản xương thật một lần rồi hai lần, nhưng rồi vẫn không được chấp nhận cho đợt triển lãm danh tiếng Nihon Bijutsuin.

Con đường hội họa cũng thật khó nói, đâu có một chiếc la bàn nào chỉ cho ta thấy đâu là con đường phải đi, ngay tới những bậc họa sư cũng từng sống trong cảnh hàn vi chật vật, rấm rứt tối ngủ không ngon vì dường như bao công sức đôi tay họ làm ra đến chai sần, rạn vỡ mà không ai hiểu, không ai chứng cho. Không ít người hâm mộ Van Gogh vì ông ấy triệu triệu... đô, họ cũng có thể yêu quý ông nhiều hơn khi biết sinh thời ông đã vất vả làm sao chỉ để sống đến ngày chẳng còn muốn sống, nhưng con đường ấy liệu ta có hiểu được không? Bần cùng mấy ai muốn đâm đầu vào. Thứ ta muốn tạo ra không đơn thuần chỉ vì nó được giá, mà nó như một cái mầm âm ỉ trong lòng đâm nứt da thịt để trồi lên thành lá, thành hoa. Ta cho rằng đây thực sự là hoàn hảo, vậy mà sau bao công sức đổ ra nó lại bị từ chối thẳng thừng, thảm thương làm sao.

Trộm nghĩ, khi đặt bút vẽ xuống bất kì điều gì, hãy nghĩ đến sự tồn tại của nó như một bản thể độc lập, tách rời khỏi chính sự kính mến trong ta. Hãy nghĩ đến nơi nó lưu lac, những người sẽ đón nhận nó. Ý chí đi lên của con người là một điều đẹp đẽ thúc đẩy ta tiếp tục tìm kiếm, kiến tạo nên những thứ mới mẻ, đột phá, và bởi con người là một sinh vật cộng đồng, ta mong đợi phản ứng của những người xung quanh để chứng thực niềm tin của mình. Nhưng nếu không ai ngoài chính ta nhìn thấy cái đẹp của nó trong cuộc đời hữu hạn này thì sao. Đó là một gánh nặng không tưởng. Ta có thể bị tổn thương, bởi sự kiến tạo này là máu thịt và tâm hồn của chính ta. Và cái tôi, đôi khi, là thứ nặng nhất trên vai một con người.

Còn nếu ta cứ kệ xác nó đi, hãy cứ kiến tạo như người lạc trong rừng chẳng còn cách nào khác ngoài phạt phẳng những cành cây um tùm tìm lối đi, nằm rạp xuống đất mà nghe, nghe cái tiếng âm u của nước bước đi trong thớ rễ, trôi trong mạch máu li ti, nước thấm ra đầu lưỡi, lướt trên đầu ngọn bút...

Có lẽ như vậy sẽ vui hơn nhiều.

Như cái bộ xương hở hang múa quạt này, tựa là ngắm hoa, mà lại chẳng thấy cánh hoa nào

Huyền thoại về Kiyohime qua tranh của Kokei Kobayashi by Phuong Nguyen

Kokei Kobayashi (1953) được chụp bởi Shigeru Tamura

Kokei Kobayashi (1953) được chụp bởi Shigeru Tamura

Kokei Kobayashi (小林古径) (1883–1957) sinh tại Takada thuộc tỉnh Niigata là một trong những họa sĩ danh tiếng theo trường phái Nihonga giữa thời Minh Trị và Đại Chính, và cũng là một trong những cây đại thụ đã đóng góp rất nhiều tranh quý cho hội họa Nhật Bản hiện đại.

Mồ côi cha mẹ từ sớm, năm 17 tuổi ông đã khăn gói đến Tokyo để theo học mỹ thuật truyền thống cùng với Kajita Hanko - một họa sĩ nổi tiếng theo dòng tranh khắc gỗ ukiyo-e và tranh minh họa kuchi-e cho bìa tạp chí và tiểu thuyết lãng mạn. Sau khi thành danh, Hanko theo đuổi sự nghiệp giáo dục và thành lập một trường mỹ thuật tư nhân mang tên Hokkokai (Byakkokai) và đây là nơi Kokei Kobayashi đã theo học bên cạnh những tên tuổi khác như Togyo Okumura và Seison Maeda. Sau một thời gian rèn luyện và nắm vững kỹ thuật truyền thống, ông gia nhập phong trào tái thiết Học Viện Mỹ Thuật Nhật Bản (Nihon Bijutsuin) dưới sự hướng dẫn của Yokoyama Taikan và sớm trở thành một trong những thành viên chủ chốt của nơi này(1). Kokei Kobayashi từng có thời gian du học tại Châu Âu cùng với Maeda Seison và như những họa sĩ từng giới thiệu qua, tính hiện thực và đương đại của Phương Tây đã ảnh hưởng ít nhiều đến phong cách cũng như những sự vật hiện tượng ông chọn để diễn họa. Tuy vậy, cho đến cuối cuộc đời Kokei Kobayashi vẫn miệt mài học tập và thực hành kỹ thuật truyền thống của mỹ thuật Nhật Bản.

Ông là một họa sĩ tài năng và có phần phá cách, không ngần ngại thử sức với bút pháp mới, từ dày đặc chi tiết đến cô đọng và giản lược. Những chủ đề trong tranh ông cũng rất đa dạng, phong phú, từ những bức tranh miêu tả sống động cảnh sinh hoạt ngày thường như phòng tắm công cộng, dệt vải bằng khung cửi, cho đến tranh tĩnh vật khai thác triệt để khoảng trống và tất nhiên còn có dòng tranh Bijin-ga mỹ nhân họa. Vào thời kỳ đầu, chủ đề mà Kokei khai thác thường mượn cảm hứng từ những điển tích xưa, những huyền thoại trong dân gian với cảnh vật thần tiên và thế giới Yokai ma quỷ, chẳng hạn như Nàng tiên ống tre (Taketori Monogatari) hay câu chuyện về Xà Nữ Kiyohime mà tôi sẽ thuật lại trong bài viết này.

Bộ tranh “Huyền thoại về Kiyohime” là một trong những tuyệt tác của Kokei Kobayashi, gồm 8 bức tranh rời được vẽ bằng bột màu truyền thống trên giấy washi, miêu tả những phân đoạn chính trong câu chuyện dựa theo điển tích được lưu giữ trong một cuộn tranh từ thời Muromachi tại chùa Dojo-ji. Bộ tranh này vốn được Kokei hoàn thiện với mục đích hợp nhất thành tranh cuộn, tuy nhiên ý định đó không thành hiện thực và nay được lưu trữ như những bức rời tại bảo tàng Mỹ thuật Yamatane.

Kiyohime là một huyền tích nổi tiếng đã được chuyển thể nhiều lần thành kịch Noh, Kabuki, hòa ca Joruri, vũ kịch truyền thống Kimi Odori và thường xuất hiện trong văn hóa hiện đại như manga, anime và cả game series. Kiyohime là một trong những Youkai hiếm hoi có gốc gác là con người, nàng đã hóa thành yêu quái sau khi phát điên bởi tình yêu không được đền đáp. Nhưng câu chuyện này không chỉ có sự hận thù và những ngang trái của yêu đương bởi bao trùm suốt câu chuyện là không gian huyền bí của núi rừng Wakayama, của đền Dojo-ji linh thiêng, của tiếng kinh tụng âm vang nhằm xiển dương sức mạnh của bộ Kinh Hoa Pháp (Lotus Sutra)

Huyền thoại về Kiyohime, cũng như những câu chuyện khác về thế giới yêu ma Nhật Bản, thường là truyện ngụ ngôn và bởi thế có nhiều dị bản với những chi tiết được thêm bớt, cường điệu để tăng phần kịch tính. Ở đây mình tóm tắt và tổng hợp từ nhiều nguồn dựa theo những phân cảnh trong tranh của Kokei Kobayashi.

1.Chuyến hành hương của nhà sư Anchin

“Khởi hành”, cảnh 1, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1307 x 489 mm, mực mài trên giấy washi

“Khởi hành”, cảnh 1, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1307 x 489 mm, mực mài trên giấy washi

Một ngày hè oi bức vào những năm 928 vào thời Heian khi Thiên Hoàng Daigo đương tại vị, có một nhà sư trẻ mang tên Anchin cùng sư phụ của mình đến từ vùng thị tứ Shirakawa đã lên đường hành hương đến Kumano Hongu - vùng đất thiêng bên kia cánh rừng ở Kỷ Y bán đảo (紀伊半島 - Kii-hanto, bán đảo lớn nhất thuộc đảo Honshu) Đây là chuyến đi thường niên và như thường lệ họ dừng lại nghỉ ngơi tại một ngôi làng nhỏ bên sông Hidaka, nơi trưởng làng Masago no Shoji luôn tiếp đãi họ như khách quý. Ông còn sai bảo con gái đến săn sóc, chuẩn bị chỗ ăn uống nghỉ ngơi cho hai nhà sư. Người con gái đó chính là Kiyohime. Năm tháng đi qua, Kiyohime lớn lên và nảy sinh tình cảm với Anchin và cô tin là Anchin cũng có cùng một cảm xúc, cô luôn chờ đợi cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa hai người mỗi năm một lần. Nay đã đến tuổi thành thân, Kiyohime tin rằng đã đến lúc tình cảm của họ đơm hoa kết trái.

2. Kiyohime lẻn vào tư thất của nhà sư

“Buồng ngủ”, cảnh 2, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 837 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Buồng ngủ”, cảnh 2, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 837 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Dưới sự che chở của màn đêm, Kiyohime đã tìm đến gian phòng nơi Anchin đang say ngủ. Nàng lẻn vào và đánh thức anh dậy để bày tỏ tình cảm của mình. Tình cảm nàng dành cho anh sâu sắc như thể nó là một sự tiếp diễn sau bao kiếp nhân sinh, và nàng mong rằng trong khiếp này họ sẽ nên vợ thành chồng rằng anh sẽ ở lại làng lâu hơn nữa. Anchin bối rối trước tình cảm Kiyohime dành cho mình, nhưng anh là Phật tử và lòng kính Phật trong anh không cho phép bản thân bị rù quyến. Không muốn làm phật lòng Kiyohime cũng như cha nàng - vị trưởng làng mến khách, anh đã nói dối rằng hãy những vị thần ở Kumano không thể gặp những nhà sư đã sa vào hồng trần tục lụy, nên nàng hãy để anh hoàn thành chuyến đi quan trọng này, sau đó trên đường về anh sẽ lại ghé qua Muro-gun để hai người họ có thể bên nhau lần nữa.

3. Đền Kumano

“Đền Kumano”, cảnh 3, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1074 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Đền Kumano”, cảnh 3, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1074 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Sau một đêm nghỉ ngơi tại làng Muro-gun, Anchin và sư phụ của mình tiếp tục cuộc hành trình đi đến vùng đất thánh Kumano. Tuy nhiên sau khi chuyến hành hương hoàn thành, Anchin đã không giữ lời hứa gặp lại Kiyohime trên đường về nhà mà anh đi thẳng về nhà ở Shirakawa. Kiyohime vẫn mơ mộng rằng rồi đây sẽ sớm gặp lại người mình yêu, ngày ngày chờ đợi nhưng mãi bặt vô âm tín. Cô hỏi thăm những người khách qua đường liệu họ đã thấy một nhà sư từ Kumano trở về không, và cô phát hiện ra rằng Anchin đã đi khỏi Muro-gun từ lâu rồi.

4. Truy đuổi

“Tiểu thư Kiyohime”, cảnh 4, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1074 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Tiểu thư Kiyohime”, cảnh 4, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1074 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Sau khi nghe được tin dữ, đau đớn, buồn tủi và phẫn nộ, Kiyohime tức tốc đuổi theo Anchin trên đôi chân trần băng qua đường rừng đầy sỏi đá như một người điên và cuối cùng cô đã bắt kịp anh. Nhưng lúc này đây, với đôi chân trần bật máu, mái tóc rối bời và y phục xộc xệch trông cô không còn giống một vị thiên kim tiểu thư nữa mà như một con quỷ oni. Cô van vỉ Anchin hãy nói cho cô biết sự thật nhưng anh liên tục nói rằng họ không quen biết nhau, cô đã nhận lầm người rồi. Hoảng loạn và tuyệt vọng trước sự tra khảo của Kiyohime, Anchin đã cầu cứu vị thần giữ đền Kumano là Kumano-gongen [熊野権現] và ngài đã điểm huyệt Kiyohime đông cứng để anh tháo chạy.

5. Anchin trốn chạy

“Bên bờ sông”, cảnh 5, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1604 x 485 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Bên bờ sông”, cảnh 5, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1604 x 485 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Trong lúc Kiyohime còn đang bất động, Anchin chạy xuyên qua cánh rừng cho đến khi một con sông lớn xuất hiện trước mắt anh. Đó chính là dòng Hidaka hung dữ. Anchin bắt gặp một người lái đò, anh kể lể về tình cảnh đau khổ của mình và người lái đò đã giúp anh vượt sông. Khi đến bờ bên kia an toàn, Anchin thở phào nhẹ nhõm rằng cuối cùng chàng đã thoát khỏi Kiyohime, không quên căn dặn người lái đò nếu sau này có gặp Kiyohime thì tuyệt đối không được giúp nàng.

6. Kiyohime vượt dòng Hidaka

“Dòng Hidaka”, cảnh 6, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1304 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Dòng Hidaka”, cảnh 6, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1304 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Sau khi chú pháp của Kumano-gongen không còn hiệu lực, Kiyohime tỉnh lại và trong nàng không còn gì ngoài sự tủi hận vì bị bỏ rơi, nàng tiếp tục đuổi theo dấu vết của Anchin trên con đường mòn cho đến khi chắn trước mặt nàng là sông Hidaka đang cuồn cuộn chảy xiết. Nàng bắt gặp người lái đò nhưng đã bị từ chối bởi ông không thể mang nữ nhân qua sông. Van xin người lái đò không thành, nàng dần dần bị xâm chiếm bởi sự giận dữ và căm thù. Quá phẫn uất, nàng gieo mình vào dòng Hidaka với quyết tâm không buông tha cho Anchin. Giữa những dòng chảy ào ạt như thác lũ, nỗi căm hận và khao khát báo thù dần dần chuyển hóa cơ thể của Kiyohime thành một con rắn khổng lồ với lông mao đen tuyền như màu tóc nàng và những bụm lửa đỏ phun ra từ giữa những chiếc răng nanh bén nhọn. Với hình thù này thật không khó khăn gì để nàng vượt qua những cơn sóng dữ và đuổi theo Anchin đến tận đền Dojoji.

7. Cái chết của nhà sư

“Yêu xà nung cháy đại hồng chung”, cảnh 7, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1424 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Yêu xà nung cháy đại hồng chung”, cảnh 7, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1424 x 489 mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Từ đền Dojoji, Anchin có thể nhìn thấy Kiyohime trong hình hài một con rắn phun lửa đang lao đến. Anh hoảng sợ kể rõ sự tình và nhờ một nhà sư giấu mình bên trong đại hồng chung. Tuy nhiên điều này đã không thoát khỏi tai mắt của Kiyohime, lửa hận thù đã che mờ lí trí và nhân tính trong cô, cô quấn chặt chiếc chuông đồng và nổi lửa nung nóng, thiêu sống Anchin bên trong đó. Cho đến khi nhìn thấy thân thể người mình từng yêu nay chỉ còn là một cái xác đen kịt, khô cong, Kiyohime mới sực tỉnh. Quá đau khổ và ân hận, nàng gieo mình xuống sông tự vẫn.

8. Cây anh đào nở hoa

“Cây anh đào trên mộ của Anchin và tiểu thư Kiyohime”, cảnh 8, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1126 x  485mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

“Cây anh đào trên mộ của Anchin và tiểu thư Kiyohime”, cảnh 8, Huyền thoại về Kiyohime (1930), 1126 x 485mm, màu khoáng thạch trên giấy washi

Ở một số phiên bản thì câu chuyện của Anchin và Kiyohime chấm dứt sau cái chết của cả hai, nhưng trong bộ tranh của Kokei thì kết cục của họ không bi thảm đến như thế. Cả hai đã được chôn cất cùng nhau trên đồi Hiyokuzuka và từ đây một cây anh đào đã mọc lên, đó chính là cây anh đào Iriai zakura (3) (日高川入相花王 - Hidakagawa iriai zakura - Cây anh đào bên dòng Hidaka là một vở Kabuki dựa theo tích truyện của Kiyohime) . Kokei vẽ thân cây anh đào uốn lượn mềm mại như một người phụ nữ, những cánh hoa trắng muốt tuôn rơi trong sự tĩnh lặng trầm mặc như khúc kinh cầu cho câu chuyện bi thảm, ngang trái giữa một nhà sư và một nàng công chúa vì tình yêu mà đã hóa thân thành yêu quái.

Huyền thoại về Kiyohime xuất xứ từ đâu có lẽ không ai thực sự rõ, nhưng bản ghi chép đầu tiên về câu chuyện này (4) được ghi nhận từ Dainihonkoku Hokekyō Kenki - Truyện kể kinh Pháp Hoa, tuyển tập những truyện ngụ ngôn, thần thoại Phật Giáo được ghi chép bởi nhà sư Chingen nhằm xiển dương đạo Phật cũng như để phổ biến kinh Pháp Hoa đến đại chúng. Theo đó, một thời gian sau cái chết của Kiyohime và Anchin, sư trụ trì của đền Dojo-ji đã có một giấc mơ lạ. Ông thấy một con rắn trườn đến bên mình và thầm thì rằng nó chính là Anchin đã hóa kiếp sau khi bị thiêu chết trong đại hồng chung, và nó mong rằng ông sẽ cầu nguyện cho linh hồn của cả hai được siêu thoát. Khi sư trụ trì tỉnh giấc, ông đã y lời lập đàn tế lễ, khấn nguyện kinh Pháp Hoa và rồi hình bóng của Anchin và Kiyohime xuất hiện, họ không chỉ được giải thoát khỏi kiếp nạn mà họ đã đạt thành Phật Quả và được nhập vào cõi Tịnh Độ. Câu chuyện còn tiết lộ rằng Anchin và Kiyohime sau đó đã trở thành Kumano Gongen và Kanzeon Bosatsu, hai vị Bồ Tát bảo hộ của đền Kumano.


Giấc mơ của Trang Tử by Phuong Nguyen

"Zhuang Zhou’s dream”, watercolor and pearl pigment on tea-dyed Fabriano artistico paper 300gsm

"Zhuang Zhou’s dream”, watercolor and pearl pigment on tea-dyed Fabriano artistico paper 300gsm

Có một lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa thành một cánh bướm nhẹ bỗng. Ông quên mất bản thân mình mà sung sướng trong thân phận con bướm vỗ cánh bay lượn. Rồi đột nhiên ông tỉnh mộng, thân thể ông ngay đây sao mà nặng nề và không thể nhầm lẫn là Trang Chu. Ông bâng khuâng tự hỏi, là Trang Chu đã mơ mình hóa bướm, hay là cánh bướm đang mơ mình hóa thành Trang Chu?

Những gì xảy đến trong cuộc đời này là hiển nhiên, hay chỉ đơn thuần là ngẫu nhiên?

Tôi đã phải tự hỏi bản thân mình điều này rất nhiều lần, bởi có những sự việc lồng ghép vào nhau một cách hoàn hảo siêu thực mà không có một mối dây liên hệ nào trong thực tế. Tôi tưởng tượng những sự tương ngộ này như hai hòn đá thô ráp nằm chỏng chơ đâu đó trong lòng núi ở hai nửa bán cầu, trải qua bao thăng trầm bể dâu, đi qua bao nhiêu áp lực dưới những kỷ trung đại khác nhau để từ vụn cát nén chặt ép thành một viên ngọc thô. Rồi con người hiện đại, sau hàng trăm triệu năm, đào nó lên, mài nhẵn nó, đánh bóng nó. Hai viên ngọc chu du khắp thế giới, qua bao bàn tay điêu khắc, những phiên đấu giá chợ đen, để rồi một ngày chúng tìm đến nhau vừa khít. Như hai nửa âm dương hợp nhất thành một.

Tôi vẽ tranh này vào cuối năm 2020 khi một sự kiện kì lạ, có phần siêu thực đã xảy ra.

Tôi nhớ từ khi mình còn nhỏ rất nhỏ, trước khi biết đọc và viết, tôi đã bắt đầu vẽ, và trong những mảnh vụn ký ức rời rạc và nhạt nhòa đó, tôi nhớ rõ bức tranh đầu tiên mình vẽ là một con cá bằng những nét thẳng.

Ba mẹ tôi hay tự hỏi không biết tôi giống ai, vì trong nhà không có ai như thế. Mơ mộng, thơ thẩn, vẽ vời, tâm hồn treo ngược cành cây... Một con vịt đen. Một biến dị. Cũng có lúc tôi chán nó, quên mất, rồi bỏ đi, nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn quay lại bên trang giấy và cọ vẽ. Như thể trong tôi có một con sâu ngọ nguậy, bắt tôi phải vẽ. Có lẽ tôi sinh ra là để làm việc này. Tôi chấp nhận nó cũng như cách tôi chấp nhận những trang thất lạc trong gia phả của gia đình mình.

Rồi một ngày kia, những trang giấy ấy được tìm thấy. Sự thật nổi lên từ đáy nước, những mảnh đứt đoạn được nối liền và câu chuyện sáng tỏ. Tôi cảm thấy mình như vừa thức dậy từ một giấc ngủ sâu. Như tìm thấy một căn phòng lạ trong căn nhà mình đã sinh sống 30 năm qua.

Và trong cái khoảnh khắc "bừng tỉnh" đó, tôi cảm thấy mình giống như Trang Tử thức dậy sau giấc ngủ hóa thành cánh bướm vỗ cánh bay lượn và giờ đây hoang mang trước sức nặng của chính bản thân mình. Là con bướm, hay con người? Bản ngã tôi đã gắn bó bao năm qua vẫn còn đây, nhưng bên cạnh nó là một nhân cách mới vừa thành hình, với một lịch sử riêng và những câu hỏi đã chờ rất lâu để được nhận lời hồi đáp. Tôi nhận ra cuộc sống này thực sự tồn tại những huyền cơ mà con người không thể khái quát nổi. Và có những sự kết nối kì lạ mà số phận đôi khi sẽ bắt ta phải chờ đợi, vì trong sự chờ đợi, ta được thử thách, và bước ra khỏi thử thách, ta không còn nghi ngờ gì, ta sẽ học được một điều mới.

Một người bạn của tôi đã nói thế này, "quả táo không rụng quá xa cái cây bao giờ."

Thật vậy.

Từ đây, tôi đi tiếp một con đường mới. Như cách con sâu vỡ kén chui ra, có một thế giới mới đang chờ đợi nó, không chỉ có gió và mây và bay lượn, mà còn có rất nhiều thử thách, nhưng bản năng được di truyền và kế thừa qua hàng triệu năm sống còn sẽ nói cho nó biết phải làm gì.

Lắng nghe tiếng lòng mình, thật đơn giản, mà cũng thật không đơn giản : )

The beating heart by Phuong Nguyen

Climbing Out of Hell, Iwasaki Tsuneo (1917-2002), ink on paper

Climbing Out of Hell, Iwasaki Tsuneo (1917-2002), ink on paper

Đôi lúc tôi mơ về một thế giới
nơi con người ngồi vai kề vai
bàn tay cuộn lấy bàn tay
chiêm ngưỡng con sâu nhả tơ kết kén
những ngọn thông đâm chồi mới
hoa mận đỏ rực sườn đồi
và giọt sương rơi…

Nhìn vào mắt nhau, nơi sinh ra những giọt nước mắt
là kết tủa của niềm vui, hay những cơn đau thắt
mất mát nối liền sinh sôi thành một vòng tròn bất tử


Một lần thôi, đi qua thế giới của người mù
để biết sinh linh đối diện mình không màu sắc, không hình thù
chỉ có âm thanh và cảm giác chỉ ra
họ là đóa hoa hay loài dã thú.

Một lần thôi, đi qua thế giới của người câm
để biết âm thanh của sóng biển hay gió lộng
cũng không khác gì tiếng khóc của phù du trôi dạt
những con sông rầm rì trong mạch máu
ngân lên tiếng rống của kẻ đi lạc.

Một lần thôi, đi qua thế giới của người điếc
để biết tiếc thương sự ồn ã của muôn loài.

Một lần thôi, mất đi cảm giác
để biết cơ thể này không phải một chiếc bình rỗng
mà đầy ắp, nhung nhúc những tế bào
tuôn trào sự sống
những ngón tay đỏ hồng như sơn trà mùa đông.

Sự sống chết đi trong từng hơi thở
hơi thở hóa thành giọt sương
trong sương bao hàm ánh trăng, tia nắng
và những ngôi sao đã chết đi từ ngàn vạn năm.

Mở mắt ra, nhìn thấy ta ngay trong khoảnh khắc này, tại nơi đây,
là một người còn sống
với trái tim đang đập chậm dần
lặng lẽ đi về phía hư không.

Bologna, Jun, 11th, 2020