"The Blood of War" by Phuong Nguyen

“The Blood of War”, Le Duy Tiep, oil on canvas, National Gallery Singapore

Đến national gallery of Singapore, lần đầu tiên đối diện với thật nhiều tác phẩm tuyệt vời từ Đông Nam Á - một vùng đất dẫu rất thân thuộc nhưng lịch sử lập quốc và lịch sử mỹ thuật của họ mình hầu như không biết gì cả. Mình nhận ra sự mâu thuẫn khi bản thân có thể biết kha khá về những vùng đất vô cùng xa xôi nhưng những nơi gần gũi hơn nhiều mình lại hoàn toàn chẳng biết gì, và đây là một thiếu sót mình muốn học hỏi, bổ sung thêm trong nhiều năm tới. Xem những bức tranh chịu nhiều sự ảnh hưởng (cả tốt lẫn xấu) từ thời thuộc địa, cảm thấy rất nhiều suy tư trong lòng nhưng có lẽ cảm xúc chưa chín muồi nên thật khó tìm lời đúng để tả về nó.

Và tất nhiên, bức tranh mình muốn nhìn thấy tận mắt nhất là bức "Blood of war" của ông Lê Huy Tiếp - một nhân duyên huyền bí hội hoạ đã mang đến. Bảo tàng này rất lớn mà vì xách ông con theo nên mình phải đi vội vàng. Khi đến mình hỏi ngay, tôi muốn xem cụ thể một bức tranh trong bộ sưu tập này, bạn vui lòng chỉ cho tôi nó nằm ở đâu. Khi họ nhìn thấy liền chỉ mình đến ngay phòng số 10, là căn phòng của "Chiến tranh."

Gần đây mình vẽ một bức tranh lấy chủ đề chiến tranh. Khi vẽ bức tranh này mình đã đọc nhiều về những cuộc chiến trong quá khứ, những cuộc diệt chủng nhân danh hoà bình thịnh vượng, và đã có những khoảnh khắc mình cảm thấy buồn nôn. Lịch sử của loài người là chiến tranh trường cửu còn hoà bình có lẽ chỉ là những khoảng nghỉ ngơi hồi sức. Tuy nhiên dẫu cho ngay tại Châu Âu bây giờ, thế chiến thứ 3 đang rình rập nhưng về căn bản cuộc sống thường nhật vẫn khá bình yên. Bản thân mình chưa từng biết đến sự kinh hoàng tang thương mà chiến tranh mang đến, những gì mình nghĩ là biết, và hiêủ, chỉ là sự đồng cảm gián tiếp.

Người chết, người sống, người mù, người mẹ, đứa trẻ, người đang cháy, người đã cháy đen, người thành xương trắng, một khóm hoa tàn, tất cả như bị ép vào ngõ cụt dưới gọng súng...

Với những người đã kinh qua chiến trận, tác phẩm họ tạo ra thật đau đớn, trần trụi đầy ai oán. Ngay kế bên bức tranh của ông Tiếp là một bức về thảm sát Mỹ Lai, dẫu không đặc tả và được vẽ một cách ước lệ, gần như trừu tượng, nhưng mình vẫn cảm thấy kinh dị và khó thở khi nhìn chúng.

Một cái hộp chỉ treo hai bàn chân. Một cỗ áo quan lót đệm trắng... Còn nhiều những tác phẩm mà mình muốn quay lại để nhìn và cảm thấu nhiều hơn.

Một bức tranh dã man khác là bức "Cháy rừng", tả cảnh đàn thú hoang khi bị lửa dồn đến mép vực. Nhìn nó và nghĩ về con người, khi đến đường cùng, chẳng khác gì đâu...

Từ ngữ nào để diễn tả những tác phẩm này, bạn không thể định nghĩa chúng với tư duy nhị nguyên đẹp-xấu, vì chúng ghi lại những giai đoạn lịch sử khi thiện-ác như tan vào nhau, khi việc giết người là hợp pháp, giết càng nhiều càng tốt, càng dễ được suy tôn thành anh hùng. Đồng loại thịt nhau không chừa già, trẻ, trai, gái và cảm giác đê mê tanh nồng đó không thua kém gì một thứ thuốc phiện.

Cuộc đời rất đẹp và cũng rất dã man, mình không muốn chỉ tiếp nhận cái đẹp, mình muốn đối diện với những chương hồi đen tối nhất của nhân loại, để cái thiện bé nhỏ mong manh trong mình luôn được cảnh tỉnh.

Hoài Phương giữa "Tám vạn bốn nghìn cây" by Phuong Nguyen

Chụp vào buổi sáng ngày mùa xuân 8/3/2020, đêm hôm đó nước Ý chính thức đóng cửa vì Covid-19

Bài phỏng vấn chính thức trên Art Republik: Trò chuyện Art Republik: Hoài Phương giữa “Tám vạn bốn nghìn cây”

Đây là phiên bản không che

Xin chào chị Hoài Phương. Chị Phương vui lòng giới thiệu một chút về bản thân nhé ạ.

Xin chào Tâm. Phương hiện đang sống tại Bologna, một thành phố cổ kính, nho nhỏ dễ thương ở miền bắc nước Ý được bao phủ vởi những ngọn đồi xanh mướt và cách Florence không xa. Mình đến đây từ năm 2017 sau khi kết hôn, và hiện bên cạnh việc vẽ tranh, mình cũng là mẹ của hai đứa trẻ.

Mình sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, môi trường sống của mình thì không có gì liên quan đến nghệ thuật cả tuy nhiên từ bé mình đã yêu thích hội họa nhiều hơn bất kì việc gì khác. Mình đã vẽ liên tục như vậy cho đến khi lớn lên, thường là ở mặt sau những cuốn vở giữa thời gian rảnh rỗi hiếm hoi trong lớp học. Mình còn nhớ từng bị đuổi khỏi lớp vài lần khi bị thầy cô bắt gặp. Thích vẽ là như vậy nhưng ý nghĩ trở thành một họa sĩ lại chưa từng xuất hiện cho đến khi đi du học. Nơi mình đi du học là một thị trấn rất nhỏ ở tiểu bang Oklahoma, nơi đó rất vắng vẻ và khá buồn, mình không có nhiều bạn, nên một ngày nọ giữa mùa đông lạnh cóng, ngày qua ngày bó gối trong nhà, để giết thời gian mình đã lấy hộp màu nước ra nghịch một tí. Chẳng ngờ là mình lại rất thích và dường như niềm vui thời bé đã sống lại một lần nữa, mình vẽ liên tục cho đến khi tốt nghiệp. Dù cho hội họa không phải là ngành mình theo học nhưng giáo sư đã đồng ý cho mình dùng những bức tranh đó làm triển lãm tốt nghiệp. Khi nhìn những bức tranh được treo trên tường trong khán phòng vắng vẻ giữa mùa hè nóng bỏng lửa, khi mà hầu hết học sinh đã về quê, lần đầu tiên mình cảm thấy trong lòng nhe nhóm ước mơ được trở thành một họa sĩ. Và mình đã cố gắng rất nhiều từ khi đó.

Mình đã luôn luôn tự hỏi không biết từ khi nào mình trở thành một họa sĩ thực sự? Đó là khi mình cầm cây cọ lên lần đầu? Khi mình nhìn những bức tranh non nớt trong triển lãm tốt nghiệp năm xưa? Khi mình có triển lãm đầu tay? Nhưng giờ đây thì điều đó với mình có lẽ cũng không thực sự quan trọng nữa, mình đang làm việc này với toàn bộ sự yêu mến và nghiêm túc theo đuổi nó.

 Là một họa sĩ Việt sống và làm việc tại trời Âu, điều này ảnh hưởng ra sao tới ngôn ngữ hội họa của chị?

Mình nhớ trước khi rời khỏi Sài Gòn, có một đêm mình đi uống rượu với một người bạn thân tên Aiden, bạn nói một câu mình đến giờ vẫn nhớ: Phương, tao mong là khi mày đến Ý, mày sẽ cảm nhận được tất cả những sự buồn bã và chông chênh của một cái cây bị bật tung gốc rễ, và rồi mày sẽ vượt qua được nó.

Câu nói của người bạn ấy mình chỉ thấm được khi đã đến Ý một thời gian, sau khi cảm giác tourist đã đi qua và mình phải bắt đầu học cách trở thành một người địa phương. Mình cảm thấy đúng là như một cái cây bị bứng đi khỏi vùng đất quen thuộc đã nuôi dưỡng tinh thần mình bấy lâu. Đặt vào vùng đất mới này, rất nhiều dây rễ cũ đã bị đứt rời hoàn toàn, và trong sự loay hoay sống còn, tìm mọi cách để thích nghi và hòa nhập với môi trường mới, có lẽ một số lá cành đã héo úa không còn cách nào hồi phục được nữa, nhưng rồi từ từ cái cây đâm ra những rễ mới, những chiếc rễ non này dần bám đất, rồi thật chậm rãi, những cành lá mới tỏa ra.

Tại đây, mình luôn ý thức được mình là một người nhập cư, Italy hay cụ thể hơn là Bologna không phải là một melting pot, sự hiện diện của người nhập cư dù ngày càng nhiều nhưng luôn tồn tại một khoảng cách giữa những cư dân mới với người bản địa. Bản thân mình không thiếu những lúc cảm thấy chông chênh như người đi trên dây giữa hai luồng văn hóa Đông – Tây, vừa giao hòa mà cũng đầy mâu thuẫn, vừa muốn hòa thành một phần mà cũng có lúc chỉ muốn làm kẻ ngoài cuộc, cái tôi của mình không ngừng tan ra rồi lại kết tủa. Mình nghĩ cảm giác có hiện diện trong các bức tranh của mình, một sự mâu thuẫn mà bản thân cũng thấy thật khó để diễn tả thành lời. Mình không thể ngả hẳn về một bên nào, những bức tranh không hoàn toàn vui và cũng chẳng bao giờ quá buồn bã cực đoan, nửa Đông nửa Tây. Hai phía đối cực như âm dương đó luôn có một sự đối kháng và tương hỗ nhất định.

Một điều rất tuyệt vời ở đây là thiên nhiên và bốn mùa. Sinh ra ở Sài Gòn, mình lớn lên trong “concrete jungle” và cái nắng mưa đặc trưng của miền nhiệt đới, nhưng ở đây mình cảm nhận được rất rõ dòng thời gian của tự nhiên và cách muôn loài thay hình đổi dạng qua từng mùa, từng tháng, có khi theo từng tuần. Quan sát chúng, mình cảm thấy được nhịp đập của tự nhiên. Không có một cái đồng hồ nào nhắc nhở chúng tự khắc biết khi nào là lúc phải ngủ đông, khi nào phải đâm chồi, khi nào phải nở hoa, và những loài côn trùng đến mùa thì nẻ đất chui lên, kết đôi, sinh sản, đi qua bao nhiêu hóa thân để hoàn thành cuộc đời ngắn ngủi đến mức nhói lòng hụt hẫng. Mình tìm thấy rất nhiều cảm hứng từ thiên nhiên. Muôn loài đang đi qua dòng thời gian trong nhịp sống riêng của chúng. Và mình cũng không ngoại lệ, cũng đang trôi đi trong dòng chảy của riêng mình, cũng đang đi qua những hóa thân để thành một con người mới.  

 

 Quan sát về nghệ thuật Việt Nam, hiếm có họa sĩ trẻ nào chọn con đường gắn mình với tranh thủy mặc. Con đường nào đã dẫn lối chị Phương tới với dòng tranh này?

Mình nghĩ thủy mặc chỉ là một phần trong thực hành của mình, cái mà mình theo đuổi thì rộng hơn như thế và có lẽ được gọi là Đông Phương Họa. Một số tranh mình sử dụng bột màu gốc đất và đá bán quý - là cách vẽ truyền thống trong Trung Quốc họa và sau này là Nihonga của Nhật Bản, thủy mặc là một phần trong lối vẽ đó. Tại Việt Nam thì khi nhắc đến thủy mặc ta sẽ thường nghĩ đến dòng tranh sơn thủy và tranh tả ý, bản thân mình nghiệm thấy tinh thần trong tranh mình không hoàn toàn tương đồng nên không thể nhận bản thân là một họa sĩ thủy mặc. Dù không hoàn toàn theo con đường thủy mặc, mình học hỏi rất nhiều từ dòng tranh với bề dày lịch sử sâu rộng này và đôi khi cũng thử sức một chút. Hội họa là một khu rừng rộng lớn nên đôi khi mình không kiềm được lòng mà muốn dạo chơi ở những vùng đất mới.

Mình tìm thấy hứng thú với con đường này này chính là khi bắt đầu vẽ bộ tranh Haiku. Nhưng khi đó mình khá phân vân, bởi trước đó cách mình vẽ rất khác, khá gần với pop surrealism, và việc thay đổi phong cách đột ngột là rất risky đặc biệt cho những họa sĩ mới. Quyết tâm thay đổi đến khi mình có cơ hội trò chuyện với một chủ phòng tranh tại Ý và đây là một trong số ít nơi làm việc với nhiều họa sĩ Châu Á. Cô xem qua portfolio và ngạc nhiên thay, bức tranh cô chọn lại là một tác phẩm cũ mình đã vẽ từ hai năm trước đó. Cô tỏ ý muốn làm việc với mình nhưng trước hết cô muốn thấy sự ổn định trong phong cách, điều đó có nghĩa là mình sẽ phải quay ngược lại hai năm trước và có thể sẽ “chết” style này luôn. Đứng trước một cơ hội tuyệt vời mà vẫn phân vân, đó là lúc mình nhận ra mình đã sẵn sàng thay đổi. Mình đã tiến lên phía trước rồi, mình không muốn quay ngược lại điểm khởi đầu. Tất nhiên là cánh cửa này đã khép lại và đã có vài năm không mình hoạt động gì nhiều, nhưng bù lại là rất nhiều thời gian để luyện tập, và nó đã mở ra những cánh cửa mới.

Mình tự học những kỹ thuật vẽ của Đông Phương họa qua internet. Sau nhiều thử nghiệm thất bại, một vài quả ngọt đã thành hình. Qua mỗi bức tranh mình dần nắm bắt tốt hơn, đi cọ mượt mà hơn, và mình vẫn đang tiếp tục học hỏi và thử nghiệm, tinh chỉnh để tìm ra những khả năng mới.

Về bản chất thì những thứ mình dùng để vẽ không khác mấy so với những họa phẩm hiện đại. Màu vẽ từ xưa đến giờ đều đến từ tự nhiên, thời nay thì ta có thêm màu nhân tạo, tùy vào binding agents sẽ tạo những chất màu khác nhau như màu nước, acrylic, màu dầu... Không riêng gì phương Đông, những họa sĩ phương Tây cũng đã từng làm i hệt, màu vẽ hoàn toàn được làm thủ công và mỗi họa sĩ sẽ có một formula riêng phù hợp với lối vẽ của họ. Thời hiện đại này thì các hãng họa phẩm đã thay ta làm công việc đó. Nhuộm giấy, pha màu, mài mực… đều là những thực hành tốn thời gian trước khi có thể bắt tay vào vẽ. Nhưng mình thì cảm thấy sự chậm rãi đó lại vừa nhịp với mình.

 

Mỹ học Á châu mình có quan niệm tranh thủy mặc không chỉ đơn thuần là minh họa hoặc tái hiện bề ngoài chủ thể mà còn là nắm bắt được cốt yếu tinh thần trong đó. Vậy tiến trình của chị khi vẽ một bức tranh mới sẽ như thế nào?

Quá trình xây dựng bức tranh là tốn thời gian nhất và phần lớn nó chỉ diễn ra trong đầu, có khi mình dành nhiều tuần chỉ để nghĩ xem muốn vẽ cái gì. Cảm hứng đến từ khắp nơi, đôi mắt quan sát vô số thứ mỗi ngày, đôi tai lắng nghe vô số câu chuyện hằng ngày, nhưng cái khoảnh khắc mà một bức tranh xuất hiện, những yếu tố rời rạc bỗng dưng kết nối thì khá đột ngột và chẳng có một pattern nhất định nào cả. Giống như là một cái nồi súp vô số thông tin nung nấu âm ỉ rất lâu để rồi bất thình lình một giọt tinh chất nhỏ ra. Khi mình đã chắc chắn muốn vẽ cái gì, bố cục ra sao thì mình sẽ đi tìm tư liệu để vẽ. Bởi phần lớn cảm hứng đến từ đời sống xung quanh nên mình khá dồi dào tài nguyên, nhưng đôi khi không có thì sẽ phải research trên internet. Tuy vậy để tìm được tư liệu y hệt những gì mình tưởng tượng là bất khả, nên mình sẽ kết hợp rất nhiều nguồn khác nhau để ra được bức tranh mà mình mong muốn. Giai đoạn xây dựng bức tranh cũng mất thời gian, vì mình thường nhuộm giấy và phải tinh chỉnh nhiều chi tiết trước khi bắt đầu xuống bút, quá trình chuẩn bị này ít chỗ cho sáng tạo và đôi khi khá nhàm chán, nhưng bù lại, nó sẽ giúp các giai đoạn sau đó trở nên nhẹ nhàng, suôn sẻ hơn rất nhiều.

Trong Đông Phương họa thì lại chia ra hai dòng tranh là công bút và tả ý, mình thiên về công bút nhiều hơn. Cá nhân mình rất ngưỡng mộ cung cách làm việc của những họa gia tả ý, khi họ quan sát thật lâu để thấm nhuần bản chất của đối tượng được vẽ nên đến mức họ có thể phóng bút không cần đường nét phác thảo mà vẫn bắt được cái thần hồn sống động của vạn vật. Tranh tả ý thường rất nhiều khoảng trống, đường nét giản tiện, nên nó đòi hỏi người xem phải suy tư đặng lấp đầy khoảng trống. Tuy nhiên cách vẽ thoạt trông đơn giản nhưng lại đòi hỏi một trình độ cao trong cách kiểm soát lượng nước, lượng mực, hiểu biết về cây cọ được sử dụng, chất giấy... Với thủy mặc bạn không thể sửa tới sửa lui, mực loan tới đâu sẽ hằn lại trên giấy mãi mãi. Đó là bút pháp “nhất giác” – và mình tin rằng nét bút thủy mặc xuất phát từ nội lực và trái tim của chính người vẽ. Về tư duy lẫn kỹ thuật mình chưa đạt đến trình độ đó. Mình phải hình dung và phác thảo kĩ càng cho một bức tranh và điều này phản ánh khía cạnh chịu ảnh hưởng từ phương Tây của mình - sự tiếp cận có phần lý trí và khoa học, xây dựng bức tranh theo từng giai đoạn, lớp lang, đi vào tiểu tiết.... Tuy nhiên mình nghĩ là cách tiếp cận dẫu có khác biệt nhưng bản chất nó thì như nhau. Một bên là quan sát thật lâu để thấm nhuần, một bên là nghiên cứu và đào sâu để hiểu rõ, nhưng tình cảm ta đặt vào trong quá trình đó là như nhau. Cái thần sẽ hiển lộ, khi bức tranh có tình cảm trong đó.

Những khai phá của chị trong việc sử dụng chất liệu (như thêm sơn cánh kiến, bột vàng,...) như một phương tiện để truyền tải cảm xúc và thông điệp có câu chuyện gì thú vị không ạ?

Mình nghĩ về chất liệu thì mình khá cổ điển, không có nhiều sự cách tân trong kỹ thuật bởi mình luôn xem bản thân là một học trò và hiện tại mình muốn bồi dưỡng bản thân có một cái nền thật vững chắc. Tất cả những kỹ thuật và kiến thức về chất liệu mình có được bây giờ không có gì mới mẻ… ngay cả việc thếp vàng lên tranh cũng là một thực hành cổ xưa mình học được từ những người đi trước. Nếu có cái gì đó mang tính khai phá cá nhân thì đó là những câu chuyện trong tranh mình chọn thể hiện.

 Những họa sĩ mà mình yêu thích thì thường mang hai đặc điểm: vừa nặng tính kế thừa vừa có những đột phá cá nhân phủ định sự kế thừa đó. Để lấy ví dụ, họa sĩ người Ý Nicola Samori là một họa sĩ sơn dầu, ông vẽ tranh theo trường phái Baroque cổ điển rất nghiêm cẩn và cách dụng bóng tối siêu việt như Caravaggio, nhưng ông có những sự phá cách cá nhân đương đại rất đương đại như là đốt và đục lỗ canvas, trộn màu vẽ với bột cẩm thạch từ trong xưởng điêu khắc rồi lột nó ra… Họa sĩ Nihonga đương đại Hiroshi Senju thay vì vẽ trên lụa với cọ như lối truyền thống thì vẽ bằng súng phun sơn. Fuyuko Matsui thì trung thành với kỹ thuật Nihonga truyền thống và cô vẽ với cung cách một họa sư từ những thế kỷ trước, nhưng cô lại kết hợp hội họa tây phương với thiên hướng hiện thực vào trong tranh, là cái đối lập với nihonga cổ điển. Học hỏi con đường sáng tạo của những nghệ sĩ này mang đến cho mình niềm cảm hứng và cũng là la bàn chỉ lối con đường mình muốn đi. Khi cây đủ lớn tự khắc sẽ đơm hoa kết trái. Hiện tại, mình đang tập trung vào việc kế thừa những tinh hoa của quá khứ. Khi cái nền đã vững, khi mình đã đủ chín thì những đột phá cá nhân sẽ đến. 



Được biết chị Phương đang nghiên cứu và thực hành minh họa thơ Haiku của tu sĩ Pháp Hoan. Đâu là duyên cớ khơi nguồn cảm hứng của chị và có điều gì đặc biệt ở bộ tranh này chị muốn chia sẻ cùng mọi người?

Mình tìm thấy thơ của Pháp Hoan khi nước Ý đang đóng cửa vì dịch Covid. Lúc đó trước Ý thì chỉ có Trung Quốc có số ca nhiễm cao nhất, thế giới vẫn chưa rõ là dịch bệnh đang lan truyền nhanh khủng khiếp khiến người chết như ngả rạ này là cái gì. Và để đối phó thì nước Ý đã lockdown toàn quốc trong gần ba tháng. Thời gian này mình không bước một bước xuống đường, chỉ loanh quanh trong nhà, mỗi ngày chờ đợi tin tức cuối ngày xem có bao nhiêu ca nhiễm, bao nhiêu người chết… Và trong bầu không khí đặc quánh sự lo âu và hoang mang này mình đã tình cờ đọc thấy những bài Haiku của Pháp Hoan. Pháp Hoan là một tu sĩ, nên những dòng thơ haiku của bạn đẫm tính thiền, chất chứa hơi thở tự nhiên trong đó. Chỉ ba dòng ngắn gọn nhưng nó lại mở ra cả một chân trời rộng lớn, đưa tâm trí mình đi ra khỏi bốn bức tường trong thời gian đầy ngột ngạt đó. Bài thơ đầu tiên mà mình họa là bài Tám vạn bốn nghìn cây.

Dưới chân núi phía tây
tôi đi vào chốn ấy
tám vạn bốn nghìn cây.

Bạn viết về tâm tư của người tu sĩ khi đứng trước khu rừng có tám vạn bốn nghìn giáo lý nhà Phật, nhưng đồng thời mình cũng cảm nhận được tâm trạng của mình khi đó là một họa sĩ chập chững bước vào nghề, hoang mang trước vô vàn ngã rẽ trước mặt, không biết nên đi về đâu, nên theo đuổi trường phái gì, nên theo học cái gì, nghệ thuật quá rộng lớn mà mình không có đến một chiếc la bàn hay một người dẫn đường. Vì đồng cảm với những tâm tư này mà mình đã vẽ nên bức tranh đầu tiên, và Pháp Hoan cũng rất thích nên tụi mình đã phát triển thêm nhiều tác phẩm khác. Có lẽ nó chính là cái gọi là “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu.”

Cá nhân mình thì cho rằng đây là một dự án khá thú vị, bởi mình sinh sống tại Ý, Pháp Hoan thì ở Canada, chúng mình cùng trao đổi với nhau bằng tiếng Việt và tác phẩm được tạo ra dựa vào thức thơ của Nhật. Không chỉ là sự giao thoa giữa thi ca và hội họa, mình thấy nó vượt qua khoảng cách địa lý và cái cảm thức cổ kính trong thơ của bạn thì lại gợi nhớ đến sự u huyền cô quạnh vượt thời gian nữa. Từ khi mình bắt đầu bộ tranh này mình cũng đã có thêm nhiều tình bạn mới. Đây là cái mà mình gọi là phép màu của nghệ thuật: khả năng kết nối những tâm hồn đồng điệu vượt qua các chiều không - thời gian.


Bức tranh nào khiến chị trầm tư nhiều nhất và câu chuyện của nó là gì?

Những bức tranh mình chọn minh họa trong hơn 600 bài thơ của Pháp Hoan là những bài mình chọn lọc dựa theo sự đồng cảm cá nhân, nên mình thích hết, và đồng cảm với tất cả. Như bức tám vạn bốn nghìn cây nói trên là về tâm tư của mình khi bước chân vào nghề (Rất tiếc là bức này một người bạn mình đã mua rồi và mình chưa tìm thấy cảm hứng mới để vẽ lại) Bức Đại Tuyết là dựa trên một công án khi thiền sư vì lạnh quá mà đem tượng Phật ra chẻ làm củi đốt, bức Ruộng khô thì khiến mình đồng cảm với tâm trạng người dân ở đồng bằng sông Cửu Long đối diện với tình trạng ngập mặn và hạn hán kéo dài…Nhưng nghĩ tới nghĩ lui, bức tranh mình yêu thích nhất có lẽ là Bốn Núi, mình đã viết một bài tự luận khá dài trên blog để giải nghĩa tâm tư của
mình với riêng bài này. 

Bốn núi bủa vây
một sáng thức dậy
thấy mình là cây.

Bốn núi trong cảm nhận của mình chính là bốn nỗi khổ lớn: Sinh, lão, bệnh, tử mà một con người sinh ra đã phải gánh lấy. Mà thực ra đâu chỉ con người, phàm vạn vật trên đời này cái gì sinh ra mà không tàn lụi? Ngay cả những thiên hà rực rỡ cũng đã đi qua giai đoạn hoài thai, bùng cháy, rồi nguội lạnh và trong một tương lai xa xăm khôn cùng tất cả sẽ chìm sâu vào đêm đen tĩnh mịch. Nói tóm lại, khổ là không tránh được. Càng lớn lên, càng thấy những dãy núi này sao càng cao vời vợi không cách nào trèo thoát nổi, và không thiếu những người tự cô lập bản thân, tách biệt khỏi xã hội, tự cắt rời bản thân khỏi triền miên những bi kịch trên thế giới, từ một cái nhà tù lớn họ đi vào một cái nhà tù nhỏ hơn, vì chung quy, bốn bức tường nó vẫn ở đó.

Nhưng một cái cây thì lại khác, núi rừng là nhà của nó. Nỗi khổ có thể đến từ tác động ngoại vi hay nội tại và cuộc sống thì không bao giờ bằng phẳng, ta không bao giờ có thể tránh được nỗi khổ. Nên nếu ta có thể hóa thành một cái cây – thay đổi góc nhìn, thì có lẽ nỗi khổ này sẽ trở nên êm dịu hơn, cuộc đời này sẽ dễ chịu hơn một tí chăng?

Triển lãm sắp tới tại Việt Nam có ý nghĩa thế nào với một người con xa quê hương như chị và thông qua triển lãm, thông điệp của chị là gì?

Thật sự là khi khởi đầu bộ tranh này mình không nghĩ rằng nó sẽ có thể đi xa được đến thế! Và hiển nhiên mình rất hạnh phúc khi những bức tranh này được về nhà, về vùng đất đã sinh thành và nuôi dưỡng tình cảm và mỹ cảm phương Đông trong mình. Sự giao thoa văn hóa đã diễn ra từ rất lâu, từ con đường tơ lụa đến những chuyến hải hành vượt trùng dương vào thế kỷ 17, và trong kỷ nguyên số khi thông tin và hình ảnh lao đi vượt khoảng cách hàng nghìn cây số chỉ trong cái chớp mắt, thật dễ dàng để tìm thấy những người mộ điệu vừa hiểu vừa trân trọng nghệ thuật đến từ những nền văn hóa khác. Tuy nhiên, có một câu trong cuốn Thiền và Văn hóa Nhật Bản mình yêu thích như thế này: “Thử lấy một bức thủy mặc vẽ hai thiền sư Hàn Sơn và Thập Đắc chẳng hạn, đem treo trong một phòng bán tranh ở Âu châu hay ở Mỹ để xem nó gây được ấn tượng gì hay ảnh hưởng thế nào đối với khách đến viếng. Lúc đó, ta sẽ thấy khái niệm "cô tuyệt" là một sản phẩm của phương Đông và chỉ có giá trị giới hạn trong vùng đất sinh thành ra nó.” (Bản dịch của bác Trịnh Nam Trân) Mỗi cá nhân chúng ta là di sản của một nền văn hóa đã tiếp diễn từ hàng trăm, hàng ngàn năm, và vì thế có những điều ta hiểu mà không cần phải giải thích dông dài, có những điều ta sẽ đồng cảm nhiều hơn và sâu sắc hơn những người sống ở vùng đất xa xăm bên kia bán cầu, những người chưa từng đắm mình trong nền văn hóa của ta. Mình đã đi xa khỏi Việt Nam khá lâu, nên phần nào đó trong mình vừa mong đợi, vừa hồi hộp không biết mọi người sẽ đón nhận nó như thế nào. Nhưng điều mình có thể chắc chắn là, mình đã đặt rất nhiều tình cảm vào trong từng bức tranh, và mình mong rằng khi bạn đứng đối diện chúng, dù có thể ta chưa bao giờ gặp nhau, bạn cũng sẽ cảm nhận được tình cảm đó.

An inkstone that I desire by Phuong Nguyen

Một nghiên mực do Aoyagi tạo tác

Trong nhiều dụng cụ vẽ mà tôi có, thứ rẻ tiền nhất là một nghiên mực. Nó là một nghiên mực tiêu chuẩn, dường như được sản xuất dây chuyền, có thể mua được dễ dàng ngay cả ở tiệm hoạ cụ ở Ý, một nơi rất xa lạ với những hoạ cụ truyền thống Đông Phương.

Nó vuông vức, nhẵn mịn, có độ dốc vừa đẹp, đen như hắc ín, được gói trong một cái hộp giấy khiêm tốn cũ sờn, phủ dầy bụi sau bao tháng năm nằm trong xó tủ hoạ cụ không ai mó đến. Tôi mua nghiên mực đó với 15 đồng. Hai năm qua nó đã mài kha khá mực, xước xác, nhưng vẫn chưa mòn, chưa lõm, luôn hoàn thành tốt việc mà nó được giao phó cho, dễ đến mấy thập kỷ nữa vẫn bền chắc, tiếp tục phụng sự trong thầm lặng.

Giấy, bút, mực, màu, đều là những thứ không thể thoả hiệp, ngoài chất lượng thì cái quan trọng hơn là cảm giác, cơ thể đã quen với chúng nên khó lòng thay đổi, vì bạn sẽ không thấy hài lòng với những thứ phẩm chất kém hơn. Nhưng một nghiên mực thì khác, chất lượng của nó không ảnh hưởng đến thành quả là bức tranh. Thỏi mực được mài trên nghiên mực đắt tiền hay rẻ tiền đều cho ra một sắc mực như nhau, có lẽ chất lượng nước mà bạn dùng còn ảnh hưởng nhiều hơn là phẩm chất hòn đá dùng để tạo ra nghiên mực đó.

Nhưng rồi một ngày tôi tìm thấy những nghiên mực tuyệt đẹp và khám phá ra rằng có một thế giới mình chưa từng biết đến - nơi chúng được tạo tác bởi nghệ nhân. Những nghiên mực được mài ra, rồi khắc, tạo hình bởi bàn tay con người, cho nó những dáng hình vuông, tròn, oval, có cái chạm khắc rồng phượng, mai tùng phong phú, thậm chí còn có cả nắp đậy sơn mài

Và tôi đã...phải lòng một hòn đá. Nghiên mực này được tạo ra bởi nghệ nhân Aoyagi Takashi, người tiếp nối cơ nghiệp gia truyền kéo dài hơn thế kỷ. Nghệ nhân đời đầu trong gia đình đã tạo ra nghiên mực mà nhà văn lỗi lạc Natsume Soseki từng sử dụng, và nay là người thừa tự, Takashi muốn tạo ra những nghiên mực mà Soseki nếu còn sống, cũng sẽ khát khao được sở hữu.

Tôi thích những nghiên mực do anh tạo ra, khác với những nghiên cổ vật thường là của gia truyền trong những gia đình quyền quý thời xưa được chạm khắc tinh xảo như một tác phẩm nghệ thuật, nghiên mực của anh giản dị, nương theo dáng hình tự nhiên của hòn đá nguyên sơ, khiến chúng có vẻ khiêm cung thô ráp, trầm lặng mà đầy sức nặng. Mang trong mình tinh thần của một học giả, Aoyagi tự tay chọn những phiến đá ưng ý từ trong mỏ đá tận Hokkaido xa xôi, cảm nhận hòn đá bằng chính đôi tay mình, để cảm giác chắc chắn trong lòng thôi thúc, rằng đây chính là nghiên mực tiếp theo mà anh phải tạo thành.

Tôi không biết cụ thể công việc của một nghệ nhân khắc đá, nhưng đã từng táy máy khắc triện, một hòn đá nhỏ hơn với những chiếc dùi đục cũng nhỏ hơn nhiều, vậy thôi mà đã đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn và hơn hết là thể lực. Bàn tay căng ra, tấy đỏ, mỏi nhừ, nên việc khắc tay một nghiên mực to nặng, chắc chắn không hề đơn giản.

Có những nghiên mực Aoyagi mới tạo ra ngay hôm qua thôi, nhưng cốt của hòn đá anh nhặt lên niên đại gần 2000 năm. Tạo ra vật phẩm thời hiện đại từ một thứ chất chứa trong nó thời gian là một trải nghiệm linh thiêng thành kính, như khi đối diện một di tích cổ xưa. Tôi nhớ đến lần đầu bước vào đấu trường Coloseo và như bị nhấn chìm trong một đợt sóng lớn, nơi này cũng gần 2000 năm tuổi.

Thời hiện đại với sự tiện lợi khiến khoảng cách giữa con người và những vật dụng ta gần gũi ngày càng xa. Dáng hình nhân tạo và chu trình khép kín khiến ta khó hình dung đâu là khởi nguồn của chúng. Nhìn lọ dầu olive, tôi vẫn có thể mường tượng được à lọ thủy tinh từ cát, dầu từ quả olive, cái nút bần từ vỏ cây sồi. Nhưng ngay đến đôi giày mình đang mang tôi đã thấy bối rối về nguồn gốc của chúng, nói gì đến cái điện thoại đang dùng để gõ những dòng chữ này.

Thực hành hội hoạ cũng không là ngoại lệ. Dù là màu gì thì cũng đến từ tự nhiên. Tự pha một chén màu từ đất đá thì màu sắc cũng không khác mấy nếu bóp ra từ tuýp màu, chỉ là người ta đã thay mình làm hết tất cả những công đoạn tinh luyện nhiêu khê. Tiết kiệm cho ta rất nhiều thời gian, nhưng có lẽ sự tiện lợi cũng đã tước đi cơ hội để ta hiểu rõ hơn nguồn cội, bản chất của sự vật. Con người ta khó có thể chiêm nghiệm điều gì trong sự vội vàng gấp gáp. Khi thân nhàn rỗi, tâm mới có thể chậm rãi mà suy tư.

Khi tôi xúc ra một ít màu đổ vào chén, những tinh thể loá lên, lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, tôi nghĩ đến hòn khoáng thạch đã đi qua hàng nghìn, thậm chí triệu năm trong sức ép của tầng tầng đất đá mà thành. Khi tôi mài thỏi mực, mùi thơm êm đềm của chúng gợi tôi nhớ đến ánh lửa bập bùng và những cây tùng già trăm tuổi. Âm thanh xào xạc khi thỏi mực hoà cùng nước ma sát với nghiên đá, tiếng nước nhuộm sôi lụp bụp trong bếp và tôi tận hưởng những xung động này với một ấm trà nóng hoặc một ly vang. Sự nhiêu khê rườm rà này cho tôi cơ hội để kết nối với những công cụ mình gần gũi, cảm xúc thăng hoa hơn khi tôi được vẽ bằng tất cả giác quan của mình.

Rồi sẽ đến ngày tôi chạm tay vào một nghiên mực Aoyagi tạo tác. Không cầu kì, chỉ cần một mặt phẳng trơn mịn có độ dốc vừa phải trên một hòn đá mà tôi có cảm tình còn vẹn nguyên hình hài. Đó là một thứ mà dù không có cũng không sao, tôi vẫn sẽ vẽ tranh rất tốt với nghiên mực 15 đồng khiêm tốn mà tận tụy của mình, nhưng nếu có sẽ khiến đời sống tinh thần thêm thú vị.

Biết rằng đời sống hiện tại đã khiến thú vui nhàn rỗi như mài mực trở nên lỗi thời, ngay cả trong giới văn nhân, nghệ sĩ thư pháp cũng không cầu kì về phẩm chất nghiên mực họ sử dụng, Aoyagi mày mò tìm hướng cách tân. Anh đi tìm những phiến đá hiếm sâu trong lòng đất ngàn năm tuổi, những phiến đá rơi xuống từ trời. Có những nghiên mực anh làm ra từ đá thiên thạch, bay xuyên vũ trụ biết đã bao nhiêu triệu triệu năm rồi đâm sầm vào tinh cầu bé nhỏ nơi ta đang sống. Cuộc du hành của chúng không dừng lại ở đó, anh nhặt chúng lên, cho chúng một dáng hình mới, một sứ mệnh mới.

Thời gian chất chứa trong chúng mang một sức mạnh mà khi chạm vào, tôi tin rằng mình sẽ cảm thấy như bị nhấn chìm dưới một cơn sóng lớn.

--

Ảnh, tư liệu từ trang web của Aoyagi Takashi: https://home-museum.net/suzuriten/

Vẽ một bức tranh by Phuong Nguyen

Mỗi bức tranh trước khi hoàn thành là 4 lần vẽ đi vẽ lại

1. Bản phác thô vụng đầy những hình vuông tròn tìm bố cục và sự cân bằng, đường nét dày mỏng chồng chất lên nhau đến khi hình dần hiện rõ.

2. Từ khung xương đó phát triển thành một bức vẽ chi tiết hơn, đi sâu hơn vào nội dung, bổ sung thêm những tiểu tiết nho nhỏ đan cài.. Đôi khi vẽ bằng chì, đôi khi bằng mực, dạo này thì mình ưu tiên vẽ máy, có thể tùy chỉnh kích thước và thay đổi linh hoạt hơn, đi chơi đâu cũng mang theo thiệt gọn.

3. Chuyển lên giấy vẽ bằng chì

4. Lên đường nét bằng mực.

Đôi khi đã nghĩ rằng để tiết kiệm thời gian hay mình có thể bỏ qua hẳn bước 1 và gộp 3,4 lại làm 1 bước duy nhất. Phác thảo hoàn toàn trên máy từ thô đến chi tiết, và thay vì vẽ lên giấy thì có thấy những hoạ sĩ đã chọn in để từ đây lên màu trực tiếp.

Nhưng cuối cùng suy đi tính lại thì mình vẫn hợp với 4 bước thế này hơn, dù tốn thời gian thật nhưng có lẽ là quen vậy rồi, những thay đổi kia dù đẩy nhanh quá trình lên được vài ngày nhưng nó lại thiếu đi cảm giác mày mò tinh chỉnh - mà có lẽ đó là 1 chất xúc tác khá quan trọng để định hình rõ ràng trước khi xuống mực. Suy cho cùng sự vội vàng là thứ dễ làm hỏng một bức tranh nhất.

Nhiều năm, rất nhiều năm mày mò, cốt cũng chỉ để tìm ra một hệ thống phù hợp và vừa với nhịp của bản thân. Nhanh hay chậm cũng chỉ là một hệ quy chiếu mang tính tương đối mà thôi.

ITO JAKUCHU phần 5: Thiên Họa Tuyệt Bút by Phuong Nguyen

500 La Hán (Ngũ Bách La Hán), mực trên lụa, Ito Jakuchu

Những năm tiếp theo, Ito Jakuchu khởi đầu một dự án mới mẻ đầy tham vọng mà ông sẽ dành toàn bộ tâm tư cho đến cuối cuộc đời mang tên 500 La Hán (Ngũ Bách La Hán). Khởi nguồn từ một bức thủy mặc về điển tích 500 vị La Hán vượt dòng Trường Giang, ông phát triển ý tưởng này thành một công trình sắp đặt điêu khắc gồm hơn 1 ngàn bức tượng đặt rải rác trong khu vườn lớn sau lưng đền thờ Sekiho-ji ở phía nam Kyoto, một đền thờ theo môn phái Obaku mà ông đặc biệt dành nhiều tình cảm. Dự án này thể hiện 8 giai đoạn cuộc đời của Phật Thích Ca, những cuộc gặp gỡ đã đưa hoàng tử Siddhartha trở thành Đức Phật, những chuyến hành hương, khung cảnh khi Ngài nhập cõi Niết Bàn và rải rác khắp khu vườn là vô số môn đồ thường được gọi dưới cái tên 500 vị La Hán. Đây là một chủ đề quan trọng khác trong các điển tích Phật giáo đại thừa, chỉ đến 500 môn sư từng tu tập khi Đức Phật Thích Ca tại thế, tuy cũng có những phiên bản khác kiến giải rằng 500 La Hán này là những tỳ kheo được tập hợp lại sau khi Đức Phật đã nhập diệt nhằm mục đích ghi chép lại và phổ biến những bài giảng của Người.

Trong dự án kéo dài nhiều năm này, Ito Jakuchu tuy không là người trực tiếp làm công việc tay chân nhưng ông là người duy nhất bỏ tiền ra thuê nghệ nhân cũng như cung cấp mọi nguyên vật liệu cần thiết. Những khối đá thô đủ mọi kích cỡ được ông lựa chọn cẩn thận, phác thảo sơ hình dáng bằng mực đen, rồi chuyển đến tay nghệ nhân để đục khắc, tạo hình ở mức độ tối thiểu nương theo dáng hình vốn có của phiến đá, sao cho chúng vẫn giữ được dáng vẻ tự nhiên hòa hợp với những lối nhỏ quanh co đầy rêu phong, cổ kính của đền Sekiho-ji. Ông đã vẽ nên tổng cộng ba bức tranh dựa theo khu vườn ở Sekihoji qua những giai đoạn khác nhau, âu cũng là điều hiếm thấy bởi ông không mặn mà với chủ đề cảnh quan. Nguyên bản bức tranh đầu tiên được dùng như bản thiết kế cho sắp đặt này đã thất lạc, người đời sau đã dựa theo những tư liệu còn sót lại để tái hiện chúng thành tranh in mộc bản mà nay khi đến thăm đền ta có thể mua bản in này như một món quà lưu niệm.

Cổng vào đền Sekihoji

Cổng vào của đền thờ Obaku thường được vát tròn với cánh cổng vuông và Ito Jakuchu đã bỏ hẳn phần mái gỗ mà chỉ để lại một hình tròn như hòn đá càng khiến chúng thêm phần siêu thực. Trụ trì Sakata tại đền kiến giải rằng cánh cổng đền tượng trưng cho sự chuyển hóa từ cõi hồng trần sang những cảnh giới cao hơn, nên về một khía cạnh nào đó nguyện vọng của Ito Jakuchu không chỉ tái hiện lại câu chuyện của Đức Phật mà ông còn muốn tạo nên một khu vườn gần nhất với cõi Niết Bàn. Cánh cổng đền được thay thế bằng chữ Yuge, vừa có nghĩa là hơi nước, vừa là một cảm thức về sự an lạc tự do một người trải nghiệm sau khi đã đạt đến cảnh giới “satori” hay còn gọi là thức tỉnh, nên khu vườn của Ito Jakuchu cũng có thể được hiểu như một nơi khi ta bước vào là rũ bỏ những tham sân si của cõi thế tục và chỉ còn lại cảm giác lâng lâng bồng bềnh như mây khói sau khi đã giác ngộ. Trụ trì cũng chỉ ra rằng trong thời gian công trình này đang tiến hành, người thầy dạy Thiền học cho Ito Jakuchu là Hakujun Shoko đã qua đời, và từ thời điểm này trở đi khu vườn này mang thêm một ý nghĩa lớn lao khác với riêng ông: lòng tưởng niệm và mong cầu người thầy của ông sẽ bình yên đến cõi cực lạc.

Một biến cố lớn xảy ra khi Ito Jakuchu 73 tuổi đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của ông. Trận đại hỏa hoạn vào năm 1788 kéo dài suốt hai ngày hai đêm đã san bằng Kyoto thành bình địa. Chôn vùi trong đống tro tàn là hàng rau gia truyền Masugen, xưởng vẽ Shin-enkan nơi Ito Jakuchu từng sinh sống làm việc bên bờ sông Kamo và đền thờ Shokoku-ji nơi người bạn vong niên Daiten trụ trì. Phần lớn các bảo vật trong đền đã bị thiêu rụi, tuy nhiên thật may mắn thay bộ tranh Doshoku Sai-e đã được cứu thoát khỏi ngọn lửa dữ. Trước khi biến cố này xảy ra, Ito Jakuchu vốn sống trong cảnh nhàn bởi xuất thân từ một hàng rau có tiếng tăm lâu đời ông chưa từng phải lo lắng về cơm ăn, áo mặc, những tác phẩm ông tạo ra hoàn toàn đến từ cái tâm vô sở cầu hay như ông từng nói, đó là phát nguyện của ông đến cõi chư thần chứ không dành cho cuộc sống thế tục. Nhưng giờ đây ông phải vẽ tranh kiếm tiền, kiếm sống qua ngày.

Vào độ tuổi 75, ông đã hoàn thành một bộ cửa trượt cho đền thờ Saifuku-ji theo yêu cầu của thương gia giàu có vùng Osaka mang tên Yoshino Yosai Goun với chủ đề mà ông lão luyện nhất: kê hùng đồ (gà trống và gà mái). Bộ cửa trượt 6 tấm này được đánh giá là một trong những kiệt tác để đời của Ito Jakuchu. Ở mặt trước cửa trượt, đàn gà trống mái được vẽ bằng bột màu khoáng vô cùng tỉ mỉ sống động bên cạnh những cây xương rồng gai góc trên nền giấy washi được thếp vàng ròng rực rỡ, gợi nhớ đến phong cách ngày xưa với bộ Doshoku Sai-e. Và ở mặt sau thì ngược lại, là một bức thủy mặc tĩnh lặng miêu tả cảnh hồ sen khô cạn, héo tàn vào cuối mùa thu. Những đóa sen trong hồ dáng hình đổi thay từ khi là một búp sen nhỏ cho đến khi mãn khai, rơi rụng, để lộ đài sen bên những chiếc lá khô cong, ngụ ý về dòng chảy của thời gian và sự vô thường của kiếp sống. Hoa sen thường được xem là hoa của cõi Phật, tuy nhiên trong bức tranh của Ito Jakuchu dáng hình tả tơi và quạnh quẽ của hồ sen này phản chiếu tâm tư của ông về sự hữu hạn chóng vánh của nhân sinh và tình cảnh của chính cuộc đời mình.

Những năm sau đó Ito Jakuchu thường xuyên đi lại giữa Kyoto và Osaka, đôi khi lưu trú tại nơi ông thực hiện những bức tranh đặt hàng hằng tháng trời. Dẫu ở độ tuổi hơn 75, nội lực và đam mê sáng tác trong ông vẫn dồi dào không thua gì khi còn trai trẻ, nhưng cũng như tất cả mọi người ông không tránh khỏi sự xói mòn của thời gian. Những bức tranh sau này thấy rõ sự suy giảm về bút lực, và theo nhiều ghi chép thì sau khi hoàn thành một bộ cửa trượt khác cho đền thờ Sekiho-ji ông lâm trọng bệnh, đến nỗi những người bạn vong niên trong đó có Daiten đã đến thăm ông và đọc kinh cầu siêu bên giường bệnh vì ngỡ đâu ông đang lưng chừng hấp hối. Tuy nhiên thời gian của ông vẫn chưa đến điểm tận, sau khi bình phục ông đã dứt khoát về hưu, thôi không nhận vẽ tranh đặt hàng nữa và lui hẳn vào trong đền thờ Sekiho-ji sinh sống. Ông dựng nên một căn nhà nhỏ trong khu vườn ngôi đền đặt tên là Thảo am già, nơi ông sinh sống cùng người em gái góa phụ nay đã quy y lấy pháp danh là Shinjaku. Sau khi chồng mất, bà dọn vào trong chùa cùng các con, chăm sóc cho anh trai Ito để ông có thể tiếp tục vẽ tranh. Bên cạnh đó, bà cũng sáng tác thơ waka và vẽ tranh in thạch bản taku-hanga để kiếm thêm thu nhập.

Cả cuộc đời Ito Jakuchu chưa từng thu nhận học viên dẫu cho giới mộ điệu từng đổ về Kyoto chiêm ngưỡng những bức tranh của ông và không ít người tỏ ý muốn tầm sư học đạo, nhưng sau khi về hưu và lui về sống cuộc đời ẩn dật trong trang viên đền thờ , ông đã thu nhận vài học viên và họ lấy nghệ danh mượn cảm hứng từ tên ông: Jakuen, Ichū và Sochū. Họ phụ giúp ông trong việc sinh hoạt ngày thường, chuẩn bị dụng cụ vẽ tranh, đồng thời cũng học hỏi những kiến thức từ người thầy của mình để phong cách của ông không thất truyền.

Một sự thú vị là vào những năm cuối đời này, Ito Jakuchu thường dùng nghệ danh beito-o, có nghĩa là một ông già vẽ tranh để đổi gạo. "Bei" là gạo, "to" là đơn vị đo lường tương đương 18lt, và "o" là một ông già. Thật khó tưởng tượng một hoạ sư được kính trọng nhất tại Kyoto lại có một nghệ danh khiêm nhường như vậy. Nhưng xét lại phần lớn cuộc đời ông đã thường tránh xa phồn hoa phố thị, nhiều phần ẩn dật, lại là một cư sĩ, nghệ danh này phản ánh tâm tư một người hiểu rõ cái tài mình có sau cuộc đời dài cần mẫn lao động nhiều cống hiến, dù giao du với tầng lớp quý tộc tăng lữ nhưng đôi chân chạm đất không tự phụ nghĩ rằng mình thanh cao sống trên những khốn khó căn bản đời người như cơm ăn, áo mặc.

“Một chiếc sọ trắng”, Ito Jakuchu, mực trên giấy.

Một bức tranh thủy mặc mà ông vẽ vào tuổi 79 mang chủ đề “memento mori” khác lạ với một chiếc đầu lâu và vài khúc xương trắng trơ trọi trên một cánh đồng lưa thưa cỏ, đây dường như là tác phẩm ông vẽ cho chính mình. Ông đã quen thuộc với sự già yếu bệnh tật và sẵn sàng đón nhận cái chết vốn có thể ập đến thình lình. Sự tương phản mạnh mẽ giữa mực đen giấy trắng là một ảnh hưởng rõ rệt từ tranh in mộc bản taku-hanga mà ông thực hành khá thường xuyên vào những năm cuối đời. Trong bức tranh có bút tích của nhà thơ thời Edo mang tên Kagawa Kageki viết rằng:

Nếu vầng trăng đêm nay
Cứ tiếp tục tỏa rạng
Hẳn rằng chẳng có ai
Ngủ đến khi trời sáng
Ở trên thế gian này.
(Dịch bởi Pháp Hoan)

Vào năm 1796, khi Ito Jakuchu 81 tuổi, ông sáng tác một bộ tranh thủy mặc khác gồm 12 bức tranh rời trên giấy gasenshi mang chủ đề rau quả. Khác với bức tranh Thái Niết Bàn, các thức rau như củ cải, ngó sen, khoai môn, nấm matsutake… đều là chủ thể duy nhất trong tranh, được phóng đại lên hết cỡ giấy bằng những vệt nhất giác đen dày, dứt khoát đầy tính động, tràn trề sức sống. Bộ tranh này là món quà gửi đến mạnh thường quân mang tên Takeuchi Shinzo, người đã viện trợ rất nhiều trong quá trình xây dựng điện thờ Quan Âm cho đền thờ Sekihoji. Bộ tranh này vốn không được bồi biểu mà lưu trữ thành từng cuộn trong hộp bảo quản, rồi được truyền qua nhiều đời con cháu của Shinzo, cho đến dịp kỷ niệm 85 năm ngày mất của Ito Jakuchu tại đền thờ Shokokuji mới được trưng bày thị chúng lần đầu tiên và họ đã quyết định bồi 12 bức tranh này thành sáu tấm bình phong. Người thưởng lãm đã bày tỏ sự xúc động vô cùng vì sau ngần ấy thời gian được bảo quản cẩn thận, những bức tranh vẫn còn mới nguyên không xây xước mối mọt, tưởng như chúng chỉ vừa được Ito vẽ ra vài hôm trước đó.

Dự án lớn cuối cùng trong cuộc đời Ito Jakuchu là trang trí trần nhà cho sảnh thờ Quan Âm tại đền Sekiho-ji với đủ loại kì hoa dị thảo. Khi này ông đã 84 tuổi, và vì sức khỏe không cho phép, ông đã tín nhiệm phần lớn khối lượng công việc cho các môn sinh của mình. Khi tác phẩm hoàn thành, trong một góc tranh ông đã kí tên với bút danh Beito-an bên cạnh dòng chữ được hoàn thành vào năm 88 tuổi, thể hiện ước vọng được sống thêm vài năm nữa. Tuy nhiên điều này đã không thành hiện thực, ông qua đời vào năm sau đó ở tuổi 85. Ngày cúng thất của ông được tổ chức trịnh trọng tại đền Rokuonji, và người đăng đàn tế, đọc kinh siêu thoát cho ông không ai khác mà chính là người bạn thân Daiten - người bạn tri âm đã cùng ông đồng hành qua kiếp người hơn sáu thập kỷ. Nếu không có Daiten luôn kề cận quan sát và ghi chép tường tận về cuộc đời, có lẽ hậu thế sẽ không có được nguồn tư liệu phong phú về cuộc đời Ito Jakuchu như vậy, nhất là khi nhiều tác phẩm của ông đã bị chôn vùi vì hỏa hoạn, động đất và chiến trận. Vào năm sau đó, Daiten cũng từ giã cõi đời, hội ngộ cùng người bạn thân bên kia thế giới.

Như những gì Daiten từng viết về ông, Ito Jakuchu ngoài vẽ ra không còn biết làm gì, không có tham vọng tiến thân, không mặn mà xa hoa vật chất, cả cuộc đời ông chỉ biết vẽ, ngày ngày tự rèn dũa bản thân, tâm hồn lang bạt trong cõi mộng của hội họa. Giữa thời Edo khi các họa phái đầy quyền lực thống trị, một Ito Jakuchu kì tài, dị biệt, ngang bướng đã không thỏa hiệp, tự mày mò tìm lối đi, tự tìm chỗ đứng cho bản thân mình. Ito Jakuchu từng nói rằng, sẽ mất cả ngàn năm để người đời có thể hiểu được hội họa của tôi, nhưng ông không biết rằng chỉ ba thế kỷ sau đó, hầu hết tác phẩm ông để lại đều sẽ được xem là quốc bảo nước Nhật, nằm trong những bộ sưu tập lừng danh thế giới.

Bức tranh “Lá chuối”, Ito Jakuchu, với triện thư “Senga Zeppitsu” góc dưới trái

Xin kết lại loạt bài này với một thành ngữ được đúc thành triện thư mà Ito Jakuchu thường dùng vào những năm cuối đời hàn vi, mà theo thiển ý của người dịch nó thể hiện thật tròn vẹn nhân cách và tâm ý ông dành cho hội họa:

Senga Zeppitsu (千画絶筆) Thiên họa tuyệt bút, có thể được hiểu là : “Hàng nghìn bức tranh, từng nét cọ đặt xuống như thể đó là lần cuối trong cuộc đời này.”