Nhà cũ tôi ở gần nghĩa trang Certosa, nơi mà tôi yêu thích cho một chuyến rảo bộ khi sáng sớm và tới giờ đây khi bạn bè ghé thăm đôi khi vẫn dẫn đến, nếu họ không ngại cảm giác có phần ảm đạm và rùng rợn khi đi lòng vòng nơi hương hồn bao người an nghỉ. Certosa rất rộng lớn và được chia thành từng khu vực riêng biệt, cũng như cách ta phân lô bán đất cho người giàu kẻ nghèo nơi cõi trần vậy, nên gọi nó là thành phố của người đã khuất cũng không ngoa. Có khu vực của vương tôn quý tộc trang hoàng tượng cẩm thạch tinh xảo, đèn chùm pha lê, thơm ngát hương hoa, có khu vực của lính tử trận trong hai cuộc thế chiến, khu vực cho người bình thường nơi mỗi gia tộc có một hốc trong tường. Cũng có khu vực cho trẻ nhỏ, cho thai chết lưu, và cũng không ít những nấm mồ không tên...
Hồi còn ở gần đó, vào dịp đầu tháng 11 khi thế giới chơi Halloween tưng bừng thì ở Ý là ngày thăm người đã khuất. Chồng tôi không phải người Bologna nên không có ai để thăm viếng, nhưng đôi khi tôi vẫn thích ghé qua Certosa một buổi chiều thu, mua vài đóa hoa cúc, gửi tặng những nấm mồ hiu quạnh.
Vài năm trước, chồng tôi đọc cho tôi nghe bài thơ La livella (san bằng) của Totò - một diễn viên, biên kịch, nhà thơ người Ý. Đây là bài thơ nói về cái chết, nó giống như một cái xe ủi, bước qua ranh giới đó, giàu, nghèo, già, trẻ, cao sang, bần hàn… tất thảy bị san bằng.
Trong cõi vĩnh hằng, muôn loài bình đẳng.
Mình dịch thơ khá dở, nếu chuyển thành văn xuôi thì mượt hơn nhiều, nhưng vì tôn trọng nguyên tác của Toto nên mình cố
To a somber November.
Nghe Toto đọc La Livella tại đây: https://youtu.be/AZ8mrzSKzQs?si=fLtZucAHax62UtrH
------
SAN BẰNG (LA LIVELLA)
Ngày hai tháng mười một hằng năm
là dịp ta đến nghĩa trang thăm người đã khuất
Đây là thông tục ai cũng phải gìn giữ
Là chuyến hành hương vương vấn suy tư.
Năm nào cũng vậy, chính xác ngày này
Với nỗi buồn sầu và lòng thương nhớ
Tôi đến nghĩa trang cùng bó hoa tươi
Đặt lên mộ dì tôi, Vincenza đáng kính.
Nhưng năm nay một sự lạ đã xảy ra
ngay sau buổi viếng thăm thấm đẫm u sầu
Đức Mẹ ơi! Nhớ lại chân tay còn run rẩy
Lấy hết can đảm tôi mới trụ vững tại đây.
Đây là sự thật, anh hãy lắng nghe này
Tại nghĩa trang khi cận kề giờ đóng cửa
Thật chậm rãi tôi cất bước xoay lưng
Rồi bỗng nhiên tôi trông thấy hai nấm mồ
“Nơi đây an nghỉ hầu tước cao quý
Rovigo, Bullino, vùng đất ngài trị vì
qua đời năm ba mốt, ngày mười một tháng năm.
người anh hùng với nghìn chiến công kì vĩ."
Trên bia đá chạm vương miện xa hoa
Lập lòe ánh đèn trong hình hài thánh giá
danh sách dài người viếng cùng bó hồng tươi
sáu cây nến chen nhau tỏa soi lòng thành kính
Và ngay bên cạnh quý ngài đầy danh giá
Một nấm mồ nhỏ nhoi, điêu tàn và tơi tả
Bao năm trời lãng quên không bóng người thăm viếng
Xiêu vẹo cây thánh giá, không cả một cành hoa.
Tôi căng mắt soi dòng chữ mờ trên thánh giá
“Người gom rác… Esposito Gennaro”
Bỗng lòng tôi trào dâng nỗi buồn khôn tả
Không cả một ngọn nến cho người đã khuất xa.
“Đời là thế…” Tôi ngậm ngùi bâng khuâng
“Kẻ trắng tay, người ngập trong của cải”
Liệu kẻ đáng thương này có nhận thấy
Nơi bên kia thế giới hắn vẫn phận bần hàn?
Tôi chìm trong suy tư đến khi trời sập tối
Rồi bất thần nhận ra đã đến hồi nửa đêm
Cổng đã khép chặt, giam tôi trong ngục tối
Cùng bao người chết bên ánh nến bập bùng.
Rồi bất chợt từ xa tôi trông thấy
Hai cái bóng mờ đang tiến đến gần đây
“Điều gì đang xảy ra?” Tôi hoang mang tự hỏi
Là thực hay mơ? Hay trí tưởng tượng điên rồ?
Không phải mơ, chính là ngài hầu tước
Tay gậy, khăn vấn, áo choàng lướt thướt
Kế bên cạnh ông là dáng hình hôi thối
Với cây chổi trong tay, mỏi mệt lê bước.
“Đây đích thị Don Gennaro…”
Người gom rác, kẻ bần cùng khốn khổ
Khiến tôi bối rối trước khung cảnh dị thường
Họ đã chết rồi nhưng giờ bỗng hồi sinh?
Rồi thình lình khi cách tôi chỉ gang tay
Ngài hầu tước bỗng dừng chân rồi gõ gậy
Ông chầm chậm xoay lưng và cất giọng
Đối diện Don Gennaro, “Hỡi kẻ hèn này
Mau nói cho ta hay, tên khốn mạt hạng
Ngươi thật táo tợn và vô cùng can đảm
khi dám chôn xác hèn kế bên ta
một người cao quý, danh tiếng ngút ngàn?
Ngươi phải tuân theo thứ bậc và giai cấp
Lí trí, lòng tự trọng ngươi đã vất đi đâu?
Xác thối của ngươi đáng ra phải chôn cất
Cùng rác rưởi xà bần dưới một nắm đất!
Thánh thần ơi ta không chịu nổi nữa
phải ở cạnh tạo vật hôi hám tanh tưởi
ta yêu cầu ngươ đi tìm mộ huyệt khác
xa khuất mắt, nơi đồng bọn ngươi tụ tập!”
“Ôi hầu tước đáng kính, oan khuất cho tôi
Kẻ hèn mọn này làm sao dám đắc tội
Là mụ vợ tôi đã lo toang hậu sự
Thân tôi đã chết, chuyện thì đã rồi.
Nếu còn sống tôi sẽ thật nhanh tay
Vác áo quan cùng bốn khúc xương này
Tôi sẽ lăn ngay vào một mộ huyện khác
Nếu điều này khiến cho ngài thanh thản.”
“Vậy còn chờ gì nữa, hỡi phế vật đáng thương?
Ngươi còn muốn ta điên tiết đến nhường nào?
Nếu không vì những tước vị cao quý
Ta đã xuống tay đánh ngươi không khoan nhượng!”
“Này này… nếu ngài lên giọng hung hăng
Thì để tôi nói cho hầu tước đây rằng
Ngài thật phiền phức và tôi chẳng còn kiên nhẫn
Tôi quên rằng mình đã chết và chẳng sợ đau thương!
Ngài nghĩ ngài là ai? Là vĩ nhân? Hay thánh thần?
Nhìn cho rõ, chúng ta giờ khác gì nhau
Đều đã chết, thành tro tàn, nắm đất
Như giây phút ra đời, hai ta bình đẳng.”
“Con lợn ngu ngốc! Sao ngươi cả gan
so sánh ta với ngươi ngang hàng?
Dòng máu của ta cao sang và đáng kính
Ngay đấng vương tôn phải cúi mình trong tỵ hiềm.”
“Nhưng giờ ngài ở đây, qua bao dịp lễ suốt năm dài
Sao ngài cứng đầu không chịu hiểu ra
rằng ngài đang phát điên trong hoang tưởng
và rằng cái chết… san bằng tất cả?
Một vị vua, một hầu tước, những người vĩ đại
Khi bước qua cánh cổng này tất thảy tàn phai
Không chỉ cuộc đời mà tên họ cũng bị tước mất
Ngài đã bao giờ thử chiêm nghiệm điều này?
Hãy lắng nghe tôi… ngài đừng ngoan cố nữa
Hãy chịu đựng tôi, ngài chẳng mất mát gì…
Đây là trò cười cho những ai đang sống
Còn chúng ta, những linh hồn trầm mặc
thuộc về
cõi chết."
The Essence of Four Seasons /
Bốn Mùa là một motif tranh phương Đông cổ điển, thường được vẽ thành bốn tấm tách biệt, mỗi bức tranh sẽ có những loài hoa và động vật, chim muông được cẩn thận chọn lựa để tô điểm cho mùa mà chúng đại diện. Quả thực có những loài hoa chỉ khoe sắc trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, như thủy tiên, diên vỹ... rồi lại ngủ vùi suốt phần còn lại trong năm, nhưng bên cạnh đó còn nhiều rất nhiều những loài cây khác sinh trưởng mạnh mẽ qua suốt bốn mùa. Chúng đơm hoa, bung lá, rồi kết trái trĩu nặng, những tưởng khi chiếc lá cuối cùng lìa cành cây cũng đã sẵn sàng cho giấc ngủ đông, nhưng thực tế tôi thấy không như vậy. Những chồi non đỏ hồng đã kịp đâm lên tua tủa từ sâu trong thớ gỗ dày, và cành cây mùa đông giờ đây trụi lá, trơ xương bỗng vươn lên thẳng thớm lạ thường sau ba mùa chùng xuống dưới sức nặng của trái cây, tàn lá. Sự sống có thể khi rộn ràng, khi âm ỉ, nhưng tuyệt không có khoảng ngừng nghỉ.
Thay vì vẽ mỗi tranh một mùa riêng biệt, tôi muốn thể hiện sự tiếp diễn này bằng cách chứa đựng cả bốn mùa trong từng bức tranh. Và tôi cũng lồng ghép nơi mỗi loài cây một chi tiết nhỏ của cơ thể con người, gợi ý rằng giống như cây cối thay hình đổi dạng qua năm tháng, ta cũng đang đi qua bốn mùa của cuộc đời mình.
Mùa Xuân là một cái dạ con bên trong quả bầu, một cơ quan hoàn toàn mới cơ thể người mẹ tạo ra để nuôi nấng sinh mệnh đang lớn lên trong mình. Mùa Hạ là cột sống ẩn trong một thân hướng dương dị dạng, một bức tranh lấy cảm hứng từ những đóa hoa cúc đột biến sau sự cố rò rỉ phóng xạ Fukushima, và cái cách mà tự nhiên bao dung trước khác biệt, không như con người luôn rất thận trọng và đôi khi tàn nhẫn trước những điều xa lạ. Mùa Thu... một cành mơ rũ xuống buông lơi một nhánh xương tàn, một lời nhắc nhở về cuộc sống vô thường, đi qua bao thăng trầm rực rỡ của kiếp người rồi thì đến tận cùng ta cũng như cành cây trụi lá mà thôi. Rồi đến mùa Đông, một cái sọ trắng nấp dưới gốc một cây dẻ ngựa, xung quanh là hoa xuyên tuyết đang nở, báo hiệu rằng tuyết sắp tan. Những thân cây mới vươn lên, chẳng mấy chốc mà trở thành một cây dẻ ngựa trưởng thành to cao, vững chãi, vươn ra những cành lá khỏe khoắn nơi muông thú đến gọi là nhà. Ta là chiếc lá, là quả ngọt lớn lên từ cái cây đại thụ của tổ tiên, dấu vết của họ hiện hữu trong xương, thịt, trong từng phân tử của ta. Rồi khi bốn mùa của ta cuối cùng đã đi qua, sẽ đến phiên ta nằm xuống hòa thành dưỡng chất của đại thụ đó, lẳng lặng dõi theo nuôi dưỡng những mầm xanh mới... Một vòng tròn bất tử của sinh và diệt.
-
In traditional motif, each of the four paintings represent a season, distinctively conveyed through the careful choice of birds and floral arrangement commonly associated with them. Although there are, indeed, certain flowers that only briefly grace us with their presence, like daffodils, iris… most plants persist throughout the year, blooming flowers, sprouting leaves, bearing fruits... When the final leaf departs, it’s commonly thought that the plant has entered a state of dormancy, its skeletal structure exposed under the harsh, wintry chill of winter. But I have seen otherwise – plants never truly slumber. The moment the last leaf falls, new buds already unfurl, sharp as an arrow, lifting up branches that were once sagged under the weights of fruits and foliage.
Instead of depicting each season individually, I want to convey this sense of continuity by combining all four seasons into a single painting. And I also incorporate a minute facet of human anatomy into the plant, mirroring the idea that, much like plants transform through months and years, we human are also passing through the four seasons of our lives.
In Spring, it manifests as a placenta encased within a calabash bottle, nursing a new life, a tribute to motherhood. Come Summer, it takes the form of a spine of a mutant sunflower, telling the story of nature's ability to embrace and radiate regardless of their odd appearance, unlike human who tend to be hostile towards things/people different from the norm. By the time Fall arrives, it unveils a skeletal hand exposed at the end of an apricot tree – a poignant reminder that, at the end of this vibrant and extraordinary journey, we will shed this skin, only a skeleton remains. And finally hail Winter, where a skull hidden amidst tangled roots, surrounded by snowdrop flowers, implying that a long and harsh winter is almost over. Horse Chestnut saplings sprout from the wet ground, unfurling new leaves. In no time, they will mature into a mighty, robust tree, providing a safe haven to other lives. We are constructed upon the foundations laid by our ancestors' branches and roots, their legacy forever imprinted in our flesh and bones, coded within every single atom. When the moment arrives, we too will become part of that eternal tree, providing the foundation for subsequent generations. The endless cycle of seasons continues.
Fuyuko Matsui: giữa biên giới của nỗi đau và sự giải thoát /
“Ngày nay phần lớn nghệ sĩ nihonga thích vẽ với màu khoáng iwa-enogu để tạo ra được những lớp màu dày rực rỡ, nhưng tôi thì không. Tôi có cảm giác rằng mình phải vẽ thật mỏng, từng lớp từng lớp một… Nó cũng giống như sự tra tấn vậy, đâm kim vào da thịt đau đớn hơn nhiều so với một nắm đấm.”
Những lời bộc bạch của Fuyuko Matsui khái quát cho ta thấy con đường cô đang đi với tư cách là một họa sĩ Nihonga đương đại. Trong khi những tác phẩm định danh nghệ thuật Nhật Bản đương đại thường đi vào dòng tranh superflat - siêu phẳng với những sắc màu neon rực rỡ, tác phẩm của cô thường trầm và tối với những lớp màu mỏng mà sâu thẳm khiến ta liên tưởng đến những bức họa thời Phục Hưng. Chủ đề cô chọn vẽ cũng không mang vẻ đáng yêu gần gũi mang tính hoạt hình như tác phẩm của những người đồng nghiệp lừng danh thế giới là Takahashi Murakami và Yoshimoto Nara mà thường là những khung cảnh đầy ám ảnh, đau đớn và hỗn loạn mang âm hưởng địa ngục.
Nghệ thuật là tấm gương phản chiếu lại muôn vạn sắc màu của nhân tính và nó mở ra cánh cửa để ta bước vào thế giới nội tâm người nghệ sĩ. Fuyuko Matsui thừa nhận, làm sao cô có thể vẽ được cái đẹp lấp lánh hy vọng trong khi cô là một người không bao giờ hạnh phúc. Nỗi đau đã luôn là một phần trong tâm tưởng của cô, và không lạ gì khi cô chọn chủ đề này cho luận án tiến sĩ tại Đại học Mỹ thuật Tokyo : “ The Inescapable Awakening to Pain, through Visual Perception via the Sensory Nerves” (Tạm dịch: Sự thức tỉnh không thể tránh khỏi về nỗi đau, thông qua tiếp nhận thị giác dẫn truyền từ mạng lưới thần kinh giác quan)
Sinh năm 1974 tại Morimachi, tỉnh Shizuoka, Fuyuko Matsui lớn lên trong trang viên thuộc về gia tộc cô đã 14 thế hệ, một căn nhà truyền thống thấm đẫm hương vị mỹ cảm Nhật Bản. Mẹ của cô, bà Fukiko Matsui là một trà sư, nên từ khi còn là một cô bé, thông qua những bài học của mẹ mà Fuyuko Matsui đã thấm nhuần những giá trị mỹ học ưu nhã và tâm thức hiện sinh bàng bạc, phù du phủ bóng lên đời sống sinh hoạt ngày thường cũng như văn chương, tín ngưỡng người Nhật… Phòng ngủ của cô là một phòng truyền thống với chiếu tatami và những tấm cửa trượt fusuma được vẽ nên bởi họa sư theo phái Nanga là Fukuda Hanko (1804-1864) Tuy sống trong môi trường đậm tính cổ truyền nhưng Fuyuko Matsui nảy sinh tình yêu với hội họa phương Tây từ nhỏ, và cô nhớ rõ được khoảnh khắc đó, khi cô chỉ mới 8 tuổi và tình cờ bắt gặp một bức tranh chép Mona Lisa của Leonardo da Vinci được treo trong thư viện trường tiểu học. Có điều gì đó thật huyền ảo đằng sau nụ cười nửa miệng và cái liếc nhìn đầy bí ẩn của nàng Mona Lisa đã thâu tóm linh hồn Fuyuko Matsui, và cô cảm thấy một ngọn lửa đang tí tách dấy lên trong lòng, từ giây phút đấy, cô biết rằng mình sẽ trở thành một họa sĩ.
Mỹ thuật Nhật Bản được chia ra làm hai nhánh, Yoga - hội họa Tây Phương và Nihonga - Nhật Bản họa. Ngưỡng mộ những danh họa Tây Phương như Leonardo da Vinci, Jan Van Eyk, G.E Lessing, Fuyuko Matsui khởi đầu muốn theo học Mỹ thuật phương Tây thuộc đại học Tokyo. Dẫu trượt bài thi đầu vào nhưng cô vẫn quyết định theo học vẽ sơn dầu tại đại học Joshibi. Sau khi tốt nghiệp cô đi làm cho doanh nghiệp trong khi tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về mỹ thuật sau giờ làm. Vào những năm 22 tuổi, cô đã xem hầu hết tất cả sách mỹ thuật về những danh họa Tây Phương, và một cách tự nhiên dần chuyển hướng về mỹ thuật truyền thống Nhật Bản. Khoảnh khắc mà cô bắt đầu hướng về Nihonga là khi đứng đối diện bức bình phong Tuyết Tùng (Shorin-za byobu) của danh họa Hasegawa Tohaku tại Bảo tàng quốc gia Tokyo. Đó là một bức thủy mặc trên giấy mênh mông khoảnh trống, với những thân cây tuyết tùng được vẽ bằng nét mực nho nơi dày nơi mỏng, gợi nên cảnh sắc núi rừng thăm thẳm, u huyền giữa màn sương. Một bức tranh được công nhận là quốc bảo nước Nhật, thể hiện trọn vẹn ý niệm về khoảng trống trong Thiền tông cũng như cảm thức wabi về vẻ đẹp cô đơn huyền diệu, tịch liêu ta tìm thấy khi đắm mình trong thiên nhiên. Fuyuko Matsui nhận thấy rằng bức bình phong này có một sức mạnh không thua kém gì những bức tranh sơn dầu lừng danh, và những phẩm chất của Nihonga không chỉ đồng điệu với tâm tư của riêng cô mà đây chính là phương hướng biểu hiện mà cô muốn theo đuổi. Năm 24 tuổi, Fuyuko Matsui vượt qua kì thi đầu vào tại đại học mỹ thuật Tokyo, nơi cô chính thức bắt đầu khóa học chuyên sâu về Nihonga.
Để hiểu rõ hơn về sự độc đáo trong hội họa của Fuyuko Matsui, ta cần biết đôi điều về sự hình thành của Nihonga - Nhật Bản họa. Khởi sinh vào thời Meiji khi Nhật Bản bắt đầu mở cửa giao thương với ngoại quốc, kéo theo sự du nhập ồ ạt những sản phẩm thương mại cũng như những giá trị văn hóa, tín ngưỡng của phương Tây, và nghệ thuật không nằm ngoài sức ảnh hưởng này. Hội họa Châu Âu đặt chân đến đất Nhật, và rất nhanh chóng các họa sĩ địa phương tiếp nhận những giá trị thẩm mỹ Tây Phương như tính hiện thực, giải phẫu học, luật viễn cận, đổ bóng tạo độ sâu nhằm mô phỏng sự vật như mắt nhìn, và họ sớm nhận ra những tính năng ưu việt sơn dầu có được so với chất liệu truyền thống phương Đông. Những họa sĩ đi du học phương Tây như Kuroda Seiki và Asai Chu đã đem lối vẽ trực họa và trường phái Ấn Tượng về Nhật Bản, và họ cũng trở thành những giáo sư giảng dạy về kỹ thuật vẽ của hội họa Tây Phương cũng như tầm quan trọng trong việc cải cách mỹ thuật truyền thống để hòa nhập với những xu thế mới của thế giới. Điều này đã làm phật ý những người theo trường phái bảo thủ, những người không lấy làm mặn mà với sức ảnh hưởng của phương Tây và muốn vực dậy những giá trị truyền thống của nước Nhật. Vào năm 1878, một chính khách trong bộ giáo dục tên Kuki Ryuichi đã được gửi đến Paris Exposition để quan sát và đánh giá về tình hình giáo dục, nghệ thuật ở Pháp và ông nhận thấy ở đây đại chúng có một niềm yêu thích rất lớn đối với nghệ thuật truyền thống Nhật Bản, thậm chí có một danh từ riêng cho nó là Japonisme. Khi quay lại Nhật Bản ông đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng cổ súy cho sự xâm thực của hội họa phương Tây là một nước đi ngu xuẩn, trong khi đất nước sở hữu những giá trị truyền thống độc nhất vô nhị mà giới sưu tầm tinh hoa ở nước ngoài ráo riết săn lùng. Những chính sách do Kuki Ryuichi thiết lập là tiền đề cho sự ra đời của Nihonga, được thành lập không lâu sau đó dưới sự hướng dẫn của Ernest Fenollosa – một giáo sư đại học Harvard và Okakura Tenshin - học giả người Nhật, thường được biết đến qua hai tác phẩm nổi tiếng là Lý tưởng phương Đông và Trà thư.
Lần đầu tiên trong lịch sử, hội họa Nhật Bản liên minh lại dưới một cái tên định danh, bởi trước đó thường được phân biệt thành từng họa phái, như trường Kano, Rinpa, Maruyama và Tosa. Nihonga chính là sự phản kháng của giới bảo tồn truyền thống, và chính vì vậy mà nguyên tắc thực hành Nihonga rất nghiêm ngặt, mang đậm chủ nghĩa dân tộc và đối trọng hoàn toàn với hội họa tây Phương. Được xây dựng trên nền tảng là các tiêu chí mỹ học kết tinh xuyên suốt chiều dài lịch sử cũng như những chủ đề đến từ điển tích văn học và tôn giáo, đề cao thiên nhiên cảnh sắc đẹp đẽ của đất nước mặt trời mọc, Nihonga thường được vẽ với những chất liệu tự nhiên như màu đất và khoáng, mực nho trên lụa hoặc giấy washi. Fenollosa và Tenshin thường được xem như là bộ não của phong trào Nihonga, chịu trách nhiệm cho nền tảng học thuật và ý niệm, trong khi đó “cánh tay” của phong trào này là Hashimoto Gaho, một họa sư đến từ hoạ phái Kano danh tiếng. Tuy nhiên, chính bản thân Gaho cũng nhận thấy sự bảo thủ chỉ càng khiến cho Nihonga thêm suy tàn trước sức ảnh hưởng không thể đảo ngược từ Yoga. Muốn phát triển, bên cạnh việc kế thừa tinh hoa của quá khứ, nhất thiết phải thừa nhận yếu điểm của chính ta, tiếp nhận cái hay của đối phương để rồi sáng tạo ra cái mới. Ông đưa những kỹ thuật đặc trưng của hội họa tây phương như luật viễn cận, bút pháp tả thực vào chương trình giảng dạy khi nhậm chức giáo sư đầu tiên tại Viện mỹ thuật hàn lâm Tokyo (tiền thân Đại học mỹ thuật Tokyo sau này), ông đã đào tạo nên những họa sư tài hoa như Yokoyama Taikan, Shimomura Kanzan, Hishida Shunso và Kawai Gyodo, bốn cây đại thụ của Nihonga đã hồi sinh mỹ thuật truyền thống.
Tuy có sự học hỏi những giá trị tân thời của hội họa Tây Phương, nhưng những bức tranh do các đại thụ này tạo ra vẫn mang đậm dấu ấn truyền thống, họ bám theo những chủ đề nhất định mang tính chủ nghĩa dân tộc, tránh sa vào đường lối tả thực, hầu như không có dấu ấn cá nhân. Người đầu tiên vượt qua giới hạn này, đặt ra cây cầu nối giữa Yoga và Nihonga có lẽ không ai khác mà chính là Fuyuko Matsui. Tuân thủ nghiêm ngặt với quy cách truyền thống của Nihonga, trong studio đầy những chiếc dĩa sứ đựng màu khoáng, mực và cọ vẽ, Fuyuko Matsui thường vẽ trong tư thế cúi quỳ, bởi tính chất tranh không thể được dựng đứng mà phải trải phẳng ra sàn. Qúa trình xây dựng một bức tranh của cô hết sức cầu kì và chi tiết, với những phác thảo chì trên giấy can mờ đi sâu vào đánh khối, gợi nhớ đến những bức vẽ giải phẫu của Leonardo da Vinci - một ảnh hưởng thấy rõ từ thực hành sơn dầu trước đó. Ảnh hưởng của yoga lên hội họa của Fuyuko Matsu có thể nhìn rõ qua những bức tranh cô thể hiện hình tượng người phụ nữ. Bijinga là một chủ đề được yêu thích trong hội họa truyền thống Nhật Bản, nhưng gương mặt người nữ trong tranh thường được vẽ với bút pháp ước lệ, chỉ vài đường nét gợi tả đôi mắt, sống mũi, làn môi, làn da trắng xóa gợi nhớ gương mặt phủ đầy phấn của những geisha và phục sức của họ lại thường là tiêu điểm, những bộ kimono được khắc họa hết sức cầu kì rực rỡ. Người nữ trong tranh của Fuyuko Matsui, trái lại, thường khỏa thân. Cô đi sâu vào việc xây dựng hình ảnh cơ thể tuân theo giải phẫu học, những nếp nhăn, cơ bắp được vẽ bằng từng lớp màu và mực rất mỏng để tạo khối và chiều sâu. Gương mặt dường như là phần yêu thích của Fuyuko Matsui, cá tính và cảm xúc nhân vật thể hiện qua từng cái mím môi, nhíu mày, ánh nhìn đầy bí ẩn được tạc nên cẩn thận qua từng vệt bút, hiện lên sống động như một tác phẩm điêu khắc. Tuy nhiên hình tượng người nữ trong tranh của Fuyuko Matsui lại không có cái vẻ đẹp bàng bạc thơ ngây gợi cảm mà sôi sục trong điên loạn, dằn vặt trong nỗi đau, và phấn khích trong sự tự hoại. Tranh của cô chính là phản đề của dòng tranh mỹ nhân họa.
Trong bức tranh “Keeping up with the pureness” (tạm dịch: Đuổi theo sự thanh khiết), một người phụ nữ xinh đẹp lõa thể nằm giữa cánh đồng hoa bung nở rực rỡ, mái tóc đen dài xõa ra trên nền đất lạnh, tương phản với nước da trắng nhợt của một xác chết. Từ dưới chiếc xương quai xanh là một khoang bụng xổ tung, để lộ mô vú và tuyến sữa trong bầu ngực căng đầy, quả tim rướm máu, dạ dày, ruột và tử cung, bên trong chứa một bào thai bé nhỏ cuộn mình, một sắp đặt gọn gàng như tiêu bản giải phẫu đầy nghiêm cẩn. Khung cảnh rùng rợn này khiến ta không khỏi nghĩ đến hiện trường một vụ án mạng, nhưng Matsui chia sẻ rằng ẩn ý cô đặt vào trong tranh không chỉ dừng lại ở ấn tượng thị giác.
“Đàn ông đối với tôi không đủ thân thuộc để có thể tái hiện trong tranh một cách chân thực.” Đằng sau câu nói này là một ám thị tâm lý về sự phân biệt vị thế của người nữ trong xã hội nam quyền thống trị. Fuyuko Matsui từng chia sẻ trong một bài phỏng vấn rằng, từ khi là một đứa bé, cô đã tự hỏi vì sao bọn con trai có thể học ngoại khóa các môn học thú vị như máy tính, trong khi con gái thì phải học làm bánh, thuê thùa? Đây thật là một sự tẩy não! Vai trò của người phụ nữ trong xã hội Nhật Bản dẫu đã có nhiều cải thiện so với thời xưa, nhưng phần lớn họ vẫn gắn bó với vị trí hậu phương trong gia đình, và thường phải nghỉ việc sau khi kết hôn. Dòng chảy của Nihonga cũng không nằm ngoài sức ảnh hưởng, dẫu vẫn có lác đác vài họa sĩ là nữ nhân như Shoen Uemura, Seien Shima, nhưng con số này rất ít ỏi, và thành công họ gặt hái được cũng khó sánh bằng những đồng nghiệp nam của họ.
Ý thức được rất rõ ẩn ức này trong nội tâm của mình, Fuyuko phóng chiếu nó lên tác phẩm. Cô chỉ vẽ phụ nữ, và ngay cả những loài thực vật và động vật trong tranh cô cũng là giống cái, bởi cô sinh ra trong thân phận người nữ, và cô chỉ vẽ những gì bản thân hiểu rõ. Về mặt sinh học, các cơ quan của nam giới sẽ phát triển mạnh hơn người nữ. Sức mạnh của người đàn ông trải đều khắp cơ thể anh ta, trong khi với phái nữ, nó tiềm ẩn trong tử cung. Người phụ nữ trong tranh gợi nhớ đến seppuku, hành vi tự mổ bụng của samurai để bảo vệ danh dự của chính mình, một tác phẩm mà theo Yuko Hasegawa (giám tuyển thực hiện bài viết về Fuyuko Matsui trên Tate: “Trong cõi luyện ngục”) là sự cảnh báo đến những kẻ toan tính trong đầu tư tưởng bạo hành, cưỡng hiếp. Viễn cảnh tăm tối trong bức tranh “Đuổi theo sự thanh khiết” không phải là một kết quả của sự bạo hành tàn ác, mà nó là hành vi mang tính chủ động đầy kiêu ngạo, giống như những đóa hoa - một biểu tượng tính dục - đang bung nở, người phụ nữ được khắc họa đang trưng ra sức mạnh của chính bản thân mình thông qua việc vạch trần nội tạng, để lộ tử cung trong giai đoạn mạnh mẽ nhất khi nó đang làm việc không ngừng để tạo nên một sinh mệnh mới. Sự mãn nguyện chan chứa trên gương mặt, và ánh mắt như nhìn xoáy vào người xem, đầy thách thức. Đây là một trong những bức tranh với ấn tượng thị giác mạnh mẽ nhất của Fuyuko Matsui, và cũng là tiền đề cho bộ tranh neo-kusozu (tân cửu tưởng đồ), thường được xem như magnum opus trong họa nghiệp của cô tính đến thời điểm hiện tại.
Cửu tưởng đồ (Kusozu) là một motif tranh Phật giáo cổ xưa, khởi nguồn từ những bài giảng trong Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (Sutra on the Samadhi Contemplation of the Ocealike Buddha) Khái quát về phương pháp thiền định về sự vẩn đục tâm hồn dựa trên việc quan sát quá trình phân hủy của một tử thi, nhằm giúp cho người thọ giới vượt qua được những cám dỗ trần tục, trong đó khó khăn nhất là dục tính, nhằm đạt đến cảnh giới thức tỉnh. Theo như bài kinh này, khát khao nhục thể được chia ra chín loại khác nhau, tương ứng với chín đoạn phân rã của xác thịt, và nó hướng dẫn người thọ giới cách để thiền trước xác chết nhằm vượt qua từng cám dỗ một. Theo đó, chín giai đoạn được lần lượt đặt tên như sau: (1) Sưng phồng/choso; (2) Thoát vị/kaiso; (3) Xuất huyết/ketsuzuso; (4) Thối rữa/noranso; (5) Khô kiệt/seioso ; (6) Làm mồi cho dã thú/tanso; (7) Tứ chi phân rã/sanso; (8) phơi xương/kosso và (9) tan thành tro bụi/shoso.
Cửu tưởng đồ xuất hiện nhiều không chỉ trong kinh kệ mà trong cả cổ thi Nhật Bản, được chấp bút bởi Thiền sư Kukai – ông tổ của Phật Giáo Nhật Bản, thiền sư Keisen, và có lẽ phiên bản được biết đến rộng rãi nhất là “Tuyển tập Tỉnh Thức” được viết bởi Kamo no Chomei. Chuyện kể rằng nhà sư Genpin đã trót đem lòng yêu mến người vợ xinh đẹp của vị lãnh chúa trong vùng. Biết được điều này, vị lãnh chúa vốn rất mực tôn sùng Genpin, đã sắp xếp cho họ một cuộc gặp gỡ. Genpin đến trong bộ hòa phục chỉnh tề, và ông chỉ đứng từ xa nhìn ngắm người phụ nữ kia một lúc lâu rồi rời đi. Trong khi nhìn ngắm người vợ vị lãnh chúa, Genpin đã mường tượng nên hình ảnh xác thân nàng rã ra với dòi bọ, một bức tranh về cửu tưởng đồ xuất hiện trong tâm trí, triệt tiêu hoàn toàn những khát khao nhục thể đã quấy rầy tâm trí ông bấy lâu. Tuy nhiên, không phải nhà sư nào cũng có khả năng hình dung sống động được quá trình phân hủy, nên việc ngồi quán trước một tử thi từng được xem như một thực hành thiền tập cần thiết cho đến khi hình ảnh ấy ăn sâu vào tiềm thức.
Dẫu đây là nguồn cảm hứng to lớn để thực hiện loạt tranh Neo-Kusozu của riêng cô, Fuyuko Matsui thể hiện rõ sự bất mãn trong cách thân thể người nữ ngày xưa đã bị vật hóa nhằm phục vụ cho việc đi tìm chánh niệm của những người đàn ông. Bộ tranh của cô tính đến thời điểm tháng 12,2013 đã hoàn thành năm bức tách biệt, không theo trình tự nêu trên, và mục đích cô tạo ra chúng cũng không nhằm khuyến khích việc quán thiền nhằm đạt đến thức tỉnh mà trái ngược hoàn toàn, chúng là tuyên ngôn của cô về cái chết hay cụ thể hơn là sự tự sát - sự tự do cao nhất khi ta được định đoạt giờ tử của chính mình. Cách cô đặt tên cho tranh đã luôn là một phần tuy nhỏ nhưng khá thú vị bởi thoạt nhìn chúng hầu như không có sự tương hổ trực tiếp đến tác phẩm, thậm chí tương phản, như một sự đánh đố tâm lý người xem, khá tương đồng với phong cách của Rene Magritte. Nhưng đối với những tác phẩm thuộc bộ kusozu, tên mỗi bức tranh là lí do cho hành động tự sát của chủ thể: vì “Đuổi theo sự thanh khiết”, để “Nhập vào chuyển hóa”, tìm “Kẽ nứt trong tro tàn”, bởi “Kí sinh trùng sẽ không rời bỏ xác thân này”, để “Tứ chi hợp nhất”…
Để vẽ nên loạt tranh này, cũng như nhiều tác phẩm khác dựa trên chủ đề giải phẫu, Fuyuko Matsui đã phải đi tìm dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Cô từng tham gia một buổi mổ xẻ một con bê tại đại học Tokai và trực họa ngay trong phòng mổ. Studio của cô dán đầy tài liệu khám nghiệm tử thi và những bức ảnh chụp lại tiêu bản giải phẫu bằng sáp của Clementine Susini tại bảo tàng giải phẫu học thuộc thành phố Bologna, nơi cô đã đích thân đến để lấy tư liệu.
Thoạt trông, loạt tranh Kusozu của Fuyuko Matsui khá kinh dị và u ám, và trong thực tế nhiều người đã bày tỏ sự quan ngại rằng chúng khuyến khích người xem đi tới hành vi tự kết liễu, Fuyuko Matsui đồng tình rằng đây là một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng trên hết, cô mong muốn người xem hãy nhìn thật sâu vào những bức tranh của cô, hãy chứng kiến sự dã man tàn bạo như địa ngục này để từ bỏ đi bóng ma luẩn khuất trong tâm hồn của chính họ.
“Tôi muốn tạo ra một liên kết giữa mình và người xem. Những gì tôi vẽ ra là điều người xem không thể, không dám làm. Nó cũng giống như cách một người thường mường tượng ra việc nhảy xuống gầm tàu, tôi đã nhảy xuống đường ray thông qua tác phẩm của mình. Cú va chạm khốc liệt đó tôi đã hứng lấy, và tôi vẽ ra cho họ nhìn thấy.”
Bằng việc tạo ra những bức tranh dường như là sự lặp đi lặp lại của nỗi đau, Fuyko Matsui tin rằng nó cũng giống như việc lấy độc trị độc, một ký ức đau đớn trỗi dậy nhiều lần sẽ sớm suy tàn, người chứng kiến sự hủy diệt cũng sẽ cũng sẽ không còn manh nha ý tưởng tự hủy hoại bản thân mình.
Xinh đẹp, tự tin và tài năng, Fuyuko Matsui từng được chọn là gương mặt trang bìa cho Vogue Japan trong khuôn khổ sự kiện “người phụ nữ của năm”. Cô cũng có những triễn lãm liên tiếp diễn ra tại bảo tàng lớn dưới sự bảo trợ của hãng đồng hồ Rolex, và gần đây nhất cô đã tham gia One Team Project cùng với kiến trúc sư Asao Tokolo như hai thành viên quan trọng trong hội đồng thiết kế biểu tượng Oympic Japan 2020. Sở hữu phong cách định danh đầy trau chuốt với bút lực dồi dào và niềm cảm hứng vô hạn nơi nỗi đau và chết chóc, cô được chọn làm họa sĩ vẽ nên 48 tấm cửa trượt cho trà thất trong Điện thờ Rurikoin Byakurengego, một ngôi chùa kiêm nghĩa trang công nghệ cao tại Shinjuku với thiết kế siêu thực bằng bê tông mô phỏng một đài sen đang nở. “Vòng tròn sinh diệt” được vẽ trên mặt lụa mỏng manh khổ lớn và quá trình tạo tác hé lộ về những giai đoạn nhiêu khê nặng nề, đòi hỏi sự tận tụy và kiên nhẫn của Nihonga. Cô phải thuê một studio lớn hơn, và bởi vì mặt lụa quá lớn cần được căng và trải phẳng, cô phải bò ra vẽ trên một tấm ván gỗ được nâng cao hơn mặt lụa chỉ vài phân, có khi liên tục mỗi ngày 12 tiếng.
Quy trình Fuyuko Matsui vẽ một bức tranh Nihonga thường bắt đầu với một phác thảo sơ sài, thường đến trong hình hài tổng quát, một ý niệm, rồi cô hình dung đối tượng muốn vẽ ra thật tường tận, sau đó để cho đôi tay phác thảo trong trạng thái nhập định, tạo nên phần khung xương cho tác phẩm. Khi bản phác thảo sơ sài hoàn tất, cô sẽ phóng chiếu từng đối tượng lên giấy can mờ và đi vào việc hoàn thiện phác thảo chi tiết, thay đổi bố cục cho đến khi một bức tranh đen trắng xuất hiện, quá trình này được thấy rõ trong quá trình cô thực hiện tác phẩm “Becoming friends with all the children around the world” (Làm bạn với trẻ em vòng quanh thế giới) Sau đó, cô sẽ chuyển bức vẽ lên giấy hoặc lụa với giấy than, rồi sau đó đi nét cùng với mực nho, một kỹ thuật được gọi là honegaki. Toàn mặt giấy hoặc lụa sẽ được phủ gofun, một loại bột trắng được nghiền từ vỏ sò, một kỹ thuật khá tương đồng với việc phủ gesso trong tranh sơn dầu, và cuối cùng cô sẽ lên màu tác phẩm.
Trong quá trình hoàn thiện bức tranh, xúc cảm, nỗi đau và sự sợ hãi khởi sinh chỉ với vài nét bút ngày càng hiện rõ, chúng liên tục được bàn tay cô đè nén, nhào nặn, để rồi hòa vào nhau thành một tổng thể êm đềm vào giây phút hoàn thiện. Thật kì lạ dù cho chủ đề cô chọn lựa nhuốm màu tự hoại phản địa đàng, nhưng chúng vẫn toát lên vẻ tĩnh lặng và trang nghiêm, như khi ta dạo bước trong nghĩa trang một buổi chiều thu. Nghệ thuật của Fuyuko Matsui không hề mang tính chữa lành và hoàn toàn là phóng chiếu chủ quan của chính con người cô, đó là phương tiện để cô giải phóng những nỗi lo âu và giận dữ trong chính bản thân mình. Cô cho rằng thời hiện đại này, tâm tính con người đã quá được ve vuốt, chúng ta chẳng khác gì đóa hoa trong lồng kính chỉ mải miết đi tìm những cái đẹp trên bề mặt, sợ hãi tầng nước sâu nơi nhung nhúc bóng tối và hiểm nguy. Thật kì lạ vì bóng tối đã luôn là một phần không thể tách rời khỏi ánh sáng, và có lẽ lịch sử của giống người chưa bao giờ có một phút giây rạng ngời cả. Dịch bệch, cái chết, chiến tranh, sự điên loạn là cái bóng không thể phân ly khỏi nhân loại. Trong quá khứ, nghệ thuật từng cực đoan hơn rất nhiều, cô nhắc đến thời kì Kamakura và những bức tranh ma quỷ, chúng ta đã từng cởi mở hơn nhiều trước nỗi sợ, và cô muốn mang âm hưởng từ quá khứ đó quay lại trong tác phẩm của chính mình. Học hỏi rất nhiều từ những họa sư đã khuất núi, bên cạnh những cái tên nổi danh trời tây để lại dấu ấn không thể chối cãi trong tranh cô như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Jan van Eyck - mà cô nói rằng sự sùng đạo trong tranh của họ có cái gì đó gợi tả đến bệnh điên, cô cũng đặt nhiều tình cảm đặt vào những họa sư Đông Phương họa, như Mục Khê, Hayami Gyoushu, Hasegawa Tohaku,… và có lẽ vì thế mà trong tranh cô vang vọng âm hưởng của cái đẹp phi tuyến tính vượt thời gian thường thấy nơi những bức tranh cuộn xưa cũ.
Khi được hỏi rằng, mục đích sau cuối của cô trong hội họa là gì? Fuyuko Matsui đã trả lời:” Tạo nên một tuyệt tác của riêng tôi.”
Tuyệt tác là gì? Ai là người đánh giá một tác phẩm là tuyệt tác? Là những nhà buôn tranh, những giám tuyển, những nhà đấu giá, là những con số 0 khi tác phẩm được gõ búa?
Cá nhân tôi tin rằng chỉ có một người nghệ sĩ mới có thể xác định được tác phẩm nào là magnum opus của chính mình. Đó phải là một sáng tạo vượt lên tất cả sáng tạo khác, một bức tranh mà chính ta cũng phải bàng hoàng - một kiệt tác không thể tái hiện. Đây là lời khẳng định đầy tham vọng của Fuyuko Matsui. Cô là một họa sĩ vô cùng kín tiếng, và tôi sau cả thập kỷ dài, vẫn đang dõi theo cô, mong đợi từng tác phẩm đôi khi mới xuất hiện trên cõi mạng mênh mông này.
Bài viết được tổng hợp và dịch bởi Hoài Phương, 10/2023
Sources:
https://www.tate.org.uk/tate-etc/issue-17-autumn-2009/realm-hell
https://brushpusher.blogspot.com/2011/06/pinpricks-in-darkness.html
Behind the Sensationalism: Images of a Decaying Corpse in Japanese Buddhist Art, Fusae Kanda
The composition of Decomposition: The Kusozu Images of Matsui Fuyuko and Ito Seiju, and Buddhism in Erotic Grosteque Modernity, Elizabeth Tinsley.
Dương Thùy Dương: Cô đơn trong những nét cọ rối /
"Trăm năm cô đơn"
Dương Thùy Dương, sơn dầu trên toan, 160 x 120cm.
Trong loạt tranh "The Humanimal", 2019
-
Tôi tìm thấy tranh của chị Dương sau triển lãm "Những hành tinh của Agnes" trên mạng và gần như ngay lập tức cảm thấy có một cơn sóng lớn ụp lên người rồi cuốn phăng mình đi. Đó là loạt tranh chị vẽ chân dung - một dòng tranh nhiều thử thách, dễ sa vào lối mòn, dễ để lộ điểm yếu và thường không chừa nhiều chỗ so sáng tạo. Thế nên tôi càng ấn tượng khi thấy chị vẽ hẳn 60 bức chân dung, càng sốc hơn khi mỗi bức tranh lại có một bút pháp riêng biệt, tiềm tàng trong từng vệt bút là ẩn ý về câu chuyện chị muốn kể.
Phong cách định danh thống trị trong hầu hết tác phẩm của chị Dương là nét cọ rối (confusing lines). Trong thời gian tìm hiểu về chị, tôi đang đọc một cuốn sách về DNA, trong đó có một câu khiến tôi rất ấn tượng: ba ý niệm khoa học mang tác động lớn nhất trong thế kỷ 20 là nguyên tử, byte và gen. Mỗi cái đại diện cho một đơn vị tối giản bất khả phân: nguyên tử của vật chất, byte của thông tin số hoá và gen của thông tin di truyền sinh học. Tác phẩm của chị Dương bao trùm lên ba mảng tách rời nhưng liên hệ mật thiết này, vừa trữ tình vừa đậm tính khoa học. Những lỗ đen vũ trụ lấp ló trong nhụy hoa, sự hoài thai trên gương mặt bí ẩn của Agnes, những chấm nhỏ gợi nhớ đến mã điện tử binary tạo nên dung nhan những hình tượng tôn giáo, sự lai hoá giữa con người với động vật và cả cơ khí, AI... Những chủ đề chị chạm tới chắc chắn không dành cho toàn thể đại chúng mà chỉ những người có một chút nền tảng và sự hiếu kỳ về những mảng khoa học này. Bên dưới những bức chân dung của chị là những câu hỏi cắc cớ về vấn đề triết học muôn thuở: ta là ai? thế giới ta đang sống là gì? Ta sẽ đi về đâu? Câu trả lời của mỗi người sẽ tùy thuộc vào thế giới quan và bể kiến thức của riêng mỗi người, nhưng đối diện những bức chân dung này, tôi lờ mờ nghiệm thấy được viễn kiến của riêng chị. Chị không đưa cho ta câu trả lời trực tiếp, và cũng vì vậy hầu hết tranh của chị không có tên, đây là một cái tôi thường không thích, nhưng trong case riêng biệt này lại phù hợp và cần thiết, bởi chị đang kiến tạo nên một thế giới mới. Đi vào vô định để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi mang tính hiện sinh này là một hành trình đầy tính cá nhân, và người hoạ sĩ đã làm đúng phần việc của chị: để cánh cửa ngỏ mời chúng ta bước vào vũ trụ tâm trí mở rộng mà không cho ta một lời giải thích nào cả.
Và vì thế mà tôi cho rằng chị là một visionary painter. Nếu bạn tìm hiểu về visionary art trên google thường kết quả sẽ cho ra những bức tranh sặc sỡ mang tính psychedelic, và đó là kết quả chưa đúng. Visionary art không hoàn toàn là một art movement, không có một phong cách, bút pháp cụ thể, và cũng không có một chủ đề nhất định nào, mỗi một visionary artist sẽ có một cách tiếp cận riêng, nhưng cái core trong tác phẩm của họ sẽ có những yếu tố tương đồng: xoá nhoà ranh giới giữa hiện thực và ảo mộng, lồng ghép những yếu tố tâm linh huyền bí và khoa học viễn tưởng, qua đó kiến tạo nên một thế giới mới và mời ta bước vào đó qua trải nghiệm thị giác. Trong quá khứ, những visionary painters kiệt xuất như William Blake và Hyeronymus Bosch thường vẽ về những chủ đề mang đậm tính tôn giáo, để người xem có thể hình dung về một thế giới xa xôi vô hình mà họ chỉ có thể hình dung qua thi ca, kinh thánh, và vì vậy mà "vision" không chỉ đơn thuần là thị giác, mà còn có thể hiểu như là thị kiến, một khái niệm mang tính tôn giáo chỉ những người đã được thánh thần mở mắt. Tuy nhiên chúng ta không còn sống trong thời mông muội chỉ biết có thiên đường địa ngục, thời hiện đại này ta đã nhìn thấy những đơn vị vi mô và những thế giới khổng lồ lẩn khuất trong những đám bụi lân tinh nơi vùng trời xa xôi tăm tối. Visionary painter của thời hiện đại này là những người có thể đem đến cho ta trải nghiệm vượt qua mọi chiều kích, để ta nghiệm thấy sự liên hệ kỳ ảo giữa nhục thể tầm thường với cái vĩ đại không tưởng. Suy cho cùng, con người từ khi đi ra khỏi hang động đã luôn tiềm tàng trong họ hạt giống của sự tò mò, và đôi khi có những cá thể tò mò đột biến một mình đi vào trong khu rừng tối, ước ao sao một ngày được nhòm vào cái giếng của tạo hoá...
Một khía cạnh nhỏ thú vị nữa khiến tôi đặc biệt yêu thích phong cách nét cọ rối của chị, nếu bạn truy về tận cùng của một bức tranh, thì nét cọ chính là đơn vị tối giản bất khả phân của hội hoạ. Nó dao động cùng tần số với ba đơn vị bất khả phân trong khoa học nói trên.
Tuy nhiên, dù cho chị đã có một phong cách định danh, nhưng chị không đứng yên tại chỗ mà không ngừng thử nghiệm những phương pháp vẽ mới - khó hơn, tinh tế hơn, thách thức hơn - và một trong những old masters mà chị theo đuổi không ai khác ngoài Vermeer, có thể nói là đối nghịch hoàn toàn với phong cách biểu hiện đặc trưng của chị. Tôi đánh giá rất cao phẩm chất này, luôn nỗ lực không ngừng để nâng cao kỹ thuật, để đi đến tận cùng sự khéo léo của bàn tay, đẩy xa hết mức giới hạn khả năng của bản thân, là dấu ấn đích thực của một người nghệ sĩ.
Ở đây tôi chọn minh hoạ một bức tranh yêu thích của cá nhân mình, được vẽ bằng những nét cọ rối đặc trưng của chị Dương: khoảnh khắc một sinh mệnh ló dạng từ cửa mình người mẹ. Tôi luôn nghĩ rằng tạo nên một sinh mệnh mới là một nhiệm vụ thật huyền bí. Bạn tưởng tượng thử xem, mã di truyền của hai cá thể hoàn toàn độc lập được gói gọn trong những đơn vị vi mô, chúng va vào nhau rồi nhân lên với tốc độ không tưởng, bùng nổ như một supernova. Những nguyên tử bé nhỏ khởi đầu nhìn không khác gì cầu khuẩn ấy từ từ xuất hiện một trái tim, một nhánh xương cong, rồi đôi mắt, và rồi chúng mọc ra tay chân, hoá thân thành người. Và cái cảm giác khi đứa con chính thức lìa mình sau bao tháng trời bên nhau, để lại đằng sau một cái tử cung trống rỗng là một nỗi cô đơn cùng cực mà tôi đã từng đi qua với những giọt nước mắt. Chị Dương là một người mẹ, và tôi cũng là một người mẹ, nên tôi có thể đồng cảm với không chỉ bức tranh này, mà còn cả những bấp bênh làm nghề khi cả hai đều có những ưu tiên hơn cả tình yêu hội hoạ. Vì đây mà hè rồi về Việt Nam tôi đi tìm cuốn Trăm Năm Cô Đơn, và tôi cũng đi tìm cuốn Sự Bất Tử đã tuyệt bản để hiểu thêm về Agnes của chị, và rất may nhờ có một cô bạn tận tâm mà tôi đã tìm được.
Vốn định để dành bài viết này cho đến khi đọc xong Sự Bất Tử, nhưng vì sắp tới đây tranh của chị Dương cũng sẽ đến Paris cùng với gallery chúng tôi đang làm việc cùng nên tôi nghĩ đây có lẽ là thời điểm vừa đúng để mình biên ra đôi dòng cảm nhận. Được trưng tranh trong khuôn viên The Lourve là 1 trải nghiệm tuyệt vời, nhưng hơn nữa là tranh tôi sẽ được đứng kế tranh chị Dương - một hoạ sĩ mình yêu mến. Người chưa được gặp nhưng tranh đã thay mặt rồi, một ví dụ nhỏ về những cuộc gặp gỡ thú vị trong hội hoạ, một điều tôi luôn để tâm và trân trọng.
Bug War / Đại chiến côn trùng /
Chiến tranh trường cửu cho một hoà bình không tưởng.
Cảm hứng cho bức tranh này đến từ một video tôi va phải trên youtube. Trong một cái lồng kính, nhiều loại côn trùng độc được thả vào, buộc phải chiến đấu cho đến khi chỉ còn lại một cá thể duy nhất sống sót. Tôi có thể thấy chúng hoảng loạn như thế nào, mỗi con chạy về một góc, co rúm sợ hãi, giương ngòi phòng thủ, nhưng rồi người chủ xị tiếp tục dồn chúng lại gần cho đến khi chúng lao vào giết nhau trong tuyệt vọng. Mọi người bình luận sôi nổi, châm biếm tình thế của chúng, hả hê với dự đoán đúng và thất vọng khi cá thể họ cược vào chết yểu. Ong bắp cày, rết, bọ sừng, nhện lông, bò cạp... trong thực tế, những loài này sống ở những môi trường rất khác biệt, có thể chúng sẽ không bao giờ rơi vào tình thế đối đầu.
Cuộc thảm chiến này và tâm lý của người xem gợi tôi nhớ đến đấu trường La Mã hồi xưa, khi những con người xa lạ buộc phải giết nhau để mua vui cho khán đài của vua quan quý tộc. Tôi cũng nhớ đến những trò chọi gà, đá dế từng một thời sôi nổi nơi cổng trường tiểu học, và tôi đã từng bước qua những cuộc chiến nho nhỏ đó với cảm giác kinh khủng và buồn nôn.
Trong con mắt những loài côn trùng mang nọc độc chết người đó, có lẽ loài người tinh khôn như tôi đây không khác gì những đấng tối cao - khổng lồ, đầy quyền năng mà chúng bất lực quy phục trong khiếp sợ.
Và tôi nghĩ đến những cuộc chiến không hồi kết phủ đầy lịch sử nhân loại. Hoà bình dường như chỉ là một khoảng nghỉ ngơi phục hồi cho những cuộc chinh phạt khác. Ngay nơi tôi đang ngồi đây mây lững lờ trôi, nhưng đâu đó khác trên địa cầu, từ trên tầng mây đó là mưa bom đang rơi xuống.
Nếu có một hay ngàn đấng tối cao tồn tại, có lẽ trong mắt họ con người cũng không khác gì những loài côn trùng bé nhỏ, vô tri. Những cuộc giết nhau không ngừng này tệ thật đấy, nhưng khi ta nhìn hai con bọ cắn giết nhau, ta có nghĩ bên nào thiện, bên nào ác? Suy cho cùng, chỉ là hai con bọ mà thôi.
Và những đấng tối cao đầy quyền uy đó trong thực tế cũng không xa ta lắm đâu... trích lại bình luận của chú Chu Nguyen khi tôi chia sẻ trích đoạn hồi trước: "Rất nhiều các đấng tối cao và đang ở gần nhà ngươi đấy. Ở Sicilia, New York, tòa Bạch Ốc, Điện Cẩm Linh, Thượng Hải, Vaticano, trên những du thuyền hoặc đâu đó trên sa mạc hoặc ... Montecarlo, Thụy Sĩ ..."
Tuy nhiên tôi cũng không muốn vẽ một viễn cảnh quá tăm tối, bởi hy vọng là thứ duy nhất còn lại giúp con người lê bước vượt qua địa ngục trường cửu. Giữa cuộc chiến, một cánh bướm yếu mềm nghỉ ngơi. Bướm là biểu tượng của giấc mộng, là ước vọng rằng sự hoà bình thực sự rồi sẽ đến.
____
"Bug war", ink and color on natural dyed Fabriano artistico watercolor paper, 2023
A perpetual war for an impossible peace
The painting was made with sumi ink and color on natural dyed watercolor paper. It portrays a ferocious battle between various species of insects. Above them, the cloud gathers and twists, resembling a brewing storm, and amidst this tumultuous sky, two divine deities emerge: Ashura, the God of War, and Avalokiteshvara, the Merciful Mother. Although positioned as observers, they exhibit no intention to intervene the bloody battle on the ground. The genesis of this artwork traces back to an accidental encounter of an insect fight video online. Various venomous insects were put in a cage, made to fight to their death. I was struck by the hysterical fascination of the audience - enormous and formidable human, akin to Gods in the eyes of these insects, indulging in the unfolding tragedy with both curiosity and indifference. This observation led me to ponder the concept of our existence as human, where our history is marked with perpetual warfare. Peace is only a temporary respite, always on the precipice of giving way to another conflict, orchestrated by a few individuals in position of power. To them, the staggering loss on the battlefield is as inconsequential as insects are to us: insignificant and expendable. Yet the painting does not solely evoke a nightmare. Amidst the chaos, a delicate butterfly rests, seemingly unperturbed by the gruesome war surround. The butterfly symbolizes dream in Asian folklore - a dream of peace, a fervent wish that this torment shall pass.