Palestine

Hoàng Đế (Nidal Al-Faqaawi) by Phuong Nguyen

”Hoàng đế”
Nidal Al-Faqaawi (1985 - )
From English translation by Wael Sawah
—-
Mọi thứ sẽ kết thúc thế nào?
Bao bộ lạc cổ xưa trong máu thịt bảo vệ ta khỏi hiểm họa
cùng mũi tên đá và gậy gộc giáo mác.
Ở trong ta là dòng dõi từ thuở hồng hoang
Từ người Ấn Độ, người Caucasian, Aryan đến Mông Cổ
Ở ta là bao đế chế văn minh khởi sinh từ đất đỏ,
nơi người da-đen trắng đang cư ngụ.

Ở trong ta đang tiến bước những bộ lạc lang thang
giữa tiếng đao gươm và mùi lửa cháy
Ở trong ta là đạo quân vĩ đại
quân đoàn của những chiến binh què cụt
Ở ta là chiến thắng cười thầm,
và rượu hồng quyện vào tiếng thét tù binh.
Ở ta là những góa phụ và kẻ không nhà
những căn chòi bốc cháy và thi hài nhung nhúc
Mọi thứ sẽ kết thúc ra sao?
địa cầu chỉ còn lại mình ta
bị gặm nhấm bởi thất bại
bốc mùi như một Hoàng Đế đã chết.

—-
(Hoài Phương dịch)

Nidal Al-Faqaawi sinh năm 1985 tại Khan Yunis, Dải Gaza. Anh có bằng thạc sĩ về tâm lý học từ đại học Al-Azhar ở Gaza và một bằng cử nhân về tâm lý học từ đại học Al-Aqsa ở Gaza. Al-Faqaawi làm trong lĩnh vực tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho trẻ em và thanh thiếu niên. Anh đã làm thơ từ nhiều năm và các bài thơ của anh được đăng trên nhiều tạp chí văn học Arab khu vực.
Bài thơ “Hoàng đế” và “Ta cất lên tiếng hát” nằm trong tuyển tập thơ “Những bài thơ lúc ban trưa” (Noon poems) đã đoạt giải nhất trong cuộc thi Cây viết trẻ 2015 được tổ chức bởi A.M Qattan Foundation

"Địa Cầu dần khép chặt" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

"Địa Cầu dần khép chặt"
Mahmoud Darwish
From English translation by Sinan Antoon

-

Vây quanh ta là Địa Cầu dần khép chặt
ép chúng ta đi qua hành lang cuối
ta cắt rời từng mảnh thịt để lách qua.

Địa Cầu đang bóp nát chúng ta.
Giá như chúng ta là ngọn lúa mì
để vươn mình sống dậy sau cửa tử.
Giá như Địa Cầu là mẹ sinh ra ta
để bà thương xót rủ lòng từ bi.
Giá như chúng ta là ảnh hình của đá
để giấc mơ mang ta bên mình như chiếc gương soi.

Ta đã thấy khuôn mặt những kẻ
sẽ ném con trẻ của chúng ta qua khung cửa chốn tận cùng.
Và trong gương chỉ còn lại những vì sao lơ lửng.

Ta phải chạy đi đâu khi chân chạm đường biên cuối?
Bầy chim bay về đâu khi đã đến cùng trời?
Và hàng cây say ngủ nơi đâu sau khi trút làn hơi cuối?

Chúng ta sẽ viết tên mình lên màn sương đỏ thẫm.
Chúng ta sẽ cắt rời tay bài quốc ca
để thịt da ta ngân lên khúc hát.

Và tại đây trên hành lang cuối
tất cả chúng ta sẽ ngã xuống
Để từ dòng máu ta tuôn trào
một cành ô-liu vươn tỏa.

----

(Hoài Phương dịch)

Chuyến tàu đã lỡ (Mahmoud Darwish ) by Phuong Nguyen

Chuyến tàu đã lỡ
Mahmoud Darwish
English translation by Nezar Andary

——

Nhanh chân lên vì chuyến tàu đã lỡ.
Và nơi đây ta đã luôn chờ đợi
bên vệ đường
Bao vãng khách hối hả lao đi
giữa cuộc đời thường nhật… còn ta
Ta tiếp tục đợi.

Khao khát bao điều còn tàng ẩn
ngày càng xa xăm nhưng đang dần xảy đến.
Sự lãng quên chẳng xua đuổi ta đi.
Và ký ức cũng không kéo ta lại gần
bên người đàn bà ấy
và nếu vầng trăng âu yếm chạm tay
nàng sẽ thét lên rằng: chính ta mới là vầng trăng.

Nhanh chân lên vì chuyến tàu đã lỡ.
Thời gian của ta lây lất ở bên đường
nào có thuộc về ta.
Thời khắc đã đổi thay
Mấy giờ rồi?
Cái gì ngăn lối ngày hôm qua
với ngày mai
khi những người gypsie lên đường di cư?

Nơi đây ta đã chào đời mà chẳng thể để lại người thừa tự.
Và chuyến tàu này
sẽ hoàn thiện cuộc hoài thai ngoan cố ấy
khi cơn say đang điên cuồng vây lấy.

Nơi đây ta được tìm thấy nhưng chính ta lại chẳng tìm ra
bất cứ thứ gì.
Trên chuyến tàu này ta đã chạm trán
linh hồn ta, chất chứa
đôi bờ một dòng sông đã chết
như cách một thanh niên ngã xuống.

 

Nhanh chân lên vì chuyến tàu đã lỡ.
Nó vút qua khi ta ngồi đó
như một sân ga, bối rối rằng liệu ta nên
nói lời tiễn biệt hay cất lời chào tha nhân:
Rảo bước trên vệ đường,
Một lời chào mừng
Một quán cà phê
Những văn phòng
Những đóa hồng
Những chiếc điện thoại
Tờ báo
Những chiếc bánh mì kẹp
Âm nhạc, cùng với
nhịp điệu dành riêng cho
một thi nhân khác sẽ đến đây trong nỗi đợi chờ.

Nhanh chân lên vì chuyến tàu đã lỡ.
dẫu ta đã muộn
nhưng vẫn còn đây nỗi đợi chờ.

——

(Hoài Phương dịch)

From Mahmoud Darwish’s latest collection, “Why Did You Abandon The Horse” (Riyad Naguib El Rayess, 1995)

Translated from the Arabic by Nezar Andary.

This poem appeared in Al Jadid Magazine, Vol. 4, No. 23, Spring 1998.

.

"Nếu anh thấy mình cô độc..." (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Nếu anh thấy mình cô độc
Mahmoud Darwish
English translation by

——

Nếu anh thấy mình cô độc, hãy nhủ thầm:
Sự lưu vong đã thay đổi dáng hình…
Chẳng phải trước anh, Abu Tamman từng đau đớn
khi ông gặp gỡ chính bản thân mình:
“Ngươi không còn là ngươi
và nhà cũng chẳng còn là nhà…”
Vạn vật chứa đựng lòng ái quốc trong anh:
Đóa hoa dại vươn lên từ góc nhỏ hoang tàn,
Ký tự “H” trong cái tên anh được chú chim sẻ điêu khắc
trên cành cây phỉ gãy ngang
kìa chú ong nhỏ châm chích cánh tay anh giang rộng
như đang với lấy một con ngỗng
phía bên kia bờ rào.
Và với riêng anh:
Tấm gương soi vào nỗi thất vọng
để rồi anh… mà cũng chẳng phải là anh, cất tiếng:
“Gương mặt ta đã thất lạc nơi đâu?”
Anh đào bới giữa bao món đồ thường nhật
hòng tìm lại cảm xúc,
hạnh phúc bật lên tiếng khóc
một thất vọng trào dâng nhoẻn miệng cười thầm…
Anh đã tìm thấy chính anh chưa?
Hãy nói với bản thân rằng: Ta chỉ thấy mình cô độc,
dẫu đã lỡ mất hai tuần trăng
nhưng quê nhà là nơi chốn vĩnh hằng.

——

(Hoài Phương dịch)

Có một ghế trống cho tôi giữa rạp chiếu bóng hoang tàn by Phuong Nguyen



Thơ của Mahmoud Darwish, đặc biệt về giai đoạn sau, không còn miêu tả trực diện những gì xảy ra trước mắt hay miêu tả cảm xúc dữ dội (một ví dụ về giai đoạn đầu là bài thơ Giấy căn cước). Ông rẽ hướng sang một lối viết mới trừu tượng hơn, huyền bí hơn, mang tính kể chuyện, trích dẫn điển tích, và có phần siêu thực để kể lại lịch sử của Palestine. Bài thơ sau đây thuộc về giai đoạn sau.

"Có một ghế trống cho tôi giữa rạp chiếu bóng hoang tàn"
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Có một ghế trống cho tôi
giữa rạp chiếu bóng hoang tàn ở Beirut.
Hồi kết của nó
tôi đã quên, hoặc không còn nhớ rõ.
Không có gì đáng để chờ đợi
bởi vở kịch được dựng nên khá vụng về:
Hỗn loạn… đoàn người tuyệt vọng
đang kể lại trận chiến, những câu chuyện
mà khán giả đã quen thuộc.
Bỗng nhiên các diễn viên xé toạc kịch bản,
rồi hối hả đi tìm gã biên kịch trong hàng ghế khán giả -
những nhân chứng vốn đã ngồi đây trước khi họ xuất hiện.
Tôi thì thầm với tay nghệ sĩ ngồi trước mình:
Đừng vội thủ thế, hãy kiên nhẫn,
trừ khi anh chính là gã biên kịch đó.
- Không phải tôi.
Hắn hỏi ngược lại: Thế ông có phải tay biên kịch đó không?
- Không phải.
Chúng tôi ngồi rúm ró trong sợ hãi. Tôi mở lời:
Can đảm lên, giữ lòng trung lập,
rồi vùng lên trước số phận đang ập đến.
Anh ta trả lời: Màn sau chẳng có ai hy sinh anh dũng
nên tôi sẽ đợi những màn sau nữa.
Biết đâu tôi sẽ đổi vai ở hồi cuối,
tùy xem mớ sắt thép kia làm gì với những người anh em của mình.
Tôi thốt lên: Vậy ra anh chính là hắn!
Anh ta đáp rằng: Cả ông và tôi đều là những tay biên kịch giấu mặt
những nhân chứng ẩn danh.
Tôi đáp: Tôi thì liên quan gì? Tôi chỉ là một khán giả đến đây xem kịch!
Anh ta tiếp lời: Bên lề vực thẳm không ai là khán giả…
không ai có thể trung dung. Anh phải chọn phe
khi vở diễn đã gần kề hồi kết.

Tôi trả lời: Nếu vậy tôi cần biết khởi đầu của mọi sự.
Mọi thứ đã bắt đầu ra sao?



(Hoài Phương dịch)

Ảnh: Rạp chiếu bóng Nasser ở Gaza, năm 1961

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường... by Phuong Nguyen

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường...
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường, ta sẽ không
ngoái nhìn – Ta sẽ nói những gì một người đàn ông
phiêu bạt nói với người đàn bà lãng du: Xin chào, hỡi người lạ
hãy đánh thức cây đàn guitar, hãy trì hoãn ngày mai
chờ con đường trải rộng, và cùng nhau
chúng ta sẽ trốn thoát khỏi câu chuyện này: Nơi nàng chỉ là nàng
nơi ta từng là một ai khác trước khi đôi ta gặp gỡ tại giây phút này.

 

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường
ta sẽ vẫn thuộc về nơi đây, chẳng còn đường lui cho ta
lẫn nàng. Hãy gọi đàn guitar thức dậy để rồi chúng ta
dò dẫm bước đi giữa vùng đất xa lạ, bao hướng đi mời gọi
vãng khách bước vào thử thách của trọng lực. Ta chẳng khá hơn
những bước chân đặt xuống. Nàng là la bàn
mà cũng là vực thẳm. Nếu ta là một ai khác
ta sẽ chôn sâu xúc cảm này ở đáy chiếc vali
cùng những bài thơ trắng muốt, tan chảy
trong suốt trừu tượng.
Chúng phát sáng, cứng cỏi hơn kỷ niệm
mong manh hơn giọt sương, và ta sẽ nói rằng:
Bản ngã của ta là mênh mông trải rộng.

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường, ta sẽ nói
với cây đàn guitar: hãy dạy cho ta những phím đàn mới,
bởi quê nhà ngày càng xa xôi. Con đường hồi hương
ngày càng đẹp tuyệt vời – đây sẽ lời cho một bài hát mới -
đường càng dài rộng, ý nghĩa càng căng tràn sức sống
Từ một hóa thành hai trên nẻo đường.
Là ta
và một ai khác…

 

Ký ức cho sự lãng quên by Phuong Nguyen

Chân dung Mahmoud Darwish được chụp bởi nhiếp ảnh gia Leonardo Cendamo tại Turin, Italy

KÝ ỨC CHO SỰ LÃNG QUÊN

Beirut, tháng 8, 1982

-

Đừng uống cà phê trong vội vã. Nó là người chị của thời gian, thế nên ta phải hớp từng ngụm, từng ngụm thật chậm rãi. Cà phê là âm thanh của hương vị, là lòng mặc tưởng cuốn ta vào dòng chảy của ký ức và linh hồn. Cà phê là một thói quen mà cùng với thuốc lá mời gọi ta đến bên một thói quen khác nữa - một tờ báo.

Tờ báo đâu rồi? Chỉ mới sáu giờ sáng mà tôi đã lọt thỏm vào địa ngục. Tin tức cần phải được đọc chứ không chỉ nghe thấy, nên một sự kiện chưa trở thành sự kiện trừ khi nó được ghi chép lại. Tôi biết một nghiên cứu sinh ở sở ngoại vụ Israel đã chối đây đẩy “tin đồn” rằng Beirut đang bị vây hãm, anh tuyên bố rằng trừ khi bản tin đó được viết bằng tiếng Hebrew, bằng không thì tấy thảy những gì anh đọc đều không xác thực. Anh nhất mực không tin rằng Beirut đang bị phong tỏa chỉ vì tờ báo Israel ấy chưa đến kịp tay. Nhưng đây không phải là điều điên rồ nhất khiến tôi khốn khổ. Với tôi, tờ nhật báo thực sự là một cơn nghiện. Tờ báo ấy đang ở đâu?

Những chiếc máy bay phản lực đang cuồn cuộn kéo đến. Bầu trời như phát điên. Thật quá sức điên rồ. Hừng đông cảnh báo ta rằng hôm nay là ngày cuối cùng của Sáng Thế. Chúng sẽ dội bom ở đâu? Có nơi nào mà chúng không oanh tạc? Khu vực vòng quanh sân bay có đủ rộng để nuốt chửng những đợt pháo kích này, dữ dội bạo tàn đến mức có thể hạ sát cả biển khơi? Tôi mở đài lên và ùa vào tai là những đoạn quảng cáo vui vẻ: “Thuốc lá Merit – đậm đà và ít nicotine hơn trước!” “Đồng hồ Citizen - vì thì giờ chính xác!” “Hãy đến với Marlboro, hãy đến nơi khoái lạc chờ đợi!” “Nước khoáng Sức Khỏe - Sức khỏe đến từ núi cao!” Nhưng nước ở đâu? Tiếng nói của những nữ phát thanh viên trên đài Monte Carlo bỗng ngày càng e thẹn, như thể họ vừa bước ra khỏi bồn tắm hay từ chốn phòng the kịch tính: “Oanh tạc dữ dội tại Beirut.” Oanh tạc dữ dội tại Beirut! Nhẽ nào bản tin này được phát đi như một tin vắn giữa một ngày bình thường, trong một cuộc chiến bình thường từ một đài phát thanh bình thường không kém? Tôi chuyển sang đài BBC. Những giọng nói lãnh đạm chết người đang hút tẩu phì phèo giữa phiên điều trần với khán thính giả. Giọng nói được phát đi qua làn sóng ngắn, rồi khuếch đại lên thành sóng trung nơi nó được biến chuyển thành âm thanh như những biếm họa gớm guốc: “Phóng viên của chúng tôi cho biết rằng, đối với những bên quan sát thận trọng thì có vẻ những gì đang diễn ra sẽ trở nên rõ ràng hơn dần dần khi phát ngôn viên các bên lên tiếng, trừ khi xảy ra khó khăn trong việc tiếp cận các sự kiện, điều này chỉ ra rằng hai phe trong cuộc chiến đang đặc biệt cố gắng không đề cập đến những phỏng đoán mơ hồ có thể tiết lộ danh tính những phi cơ cũng như phi công chưa xác định, nếu chúng ta muốn biết chính xác hơn thì điều này sẽ khẳng định rằng một số người đang mặc quân phục rất đẹp.” Giọng Ả Rập thanh lịch với những thông tin chuẩn xác làm sao, được kết lại bằng khúc hát của Muhammad Abd al-Wahhab bằng thứ ngôn ngữ Ả Rập bình dân cùng những xúc cảm chuẩn xác nhất: “Đến đây gặp anh, hoặc nói cho anh biết anh có thể gặp em nơi nào / Nói anh biết phải đi về đâu, hoặc từ bỏ em bây giờ.”

Những giọng đều đều i hệt nhau. Như hạt cát diễn tả đại dương. Những lời hùng biện chối tai, vô sỉ, chúng diễn tả cái chết như dự báo thời tiết, thậm chí bản tin về con ngựa hay một trận đua xe còn khá hơn thế. Tôi đang tìm kiếm điều gì? Tôi mở cửa vài bận mà chẳng thấy tờ báo nào cả. Tại sao tôi lại đi tìm một tờ báo trong khi những tòa nhà đang đổ sập từ mọi hướng? Lẽ nào như thế chưa đủ ghi chép hay sao?

Có điều gì đó không đúng. Kẻ đi tìm tờ báo giữa địa ngục này là kẻ đang cố trốn chạy khỏi cái chết cá nhân đến bên một cái chết tập thể. Anh ta đang đi tìm cặp mắt một con người, để cùng sẻ chia sự im lặng, cầu mong một mẩu đối thoại. Anh ta đang tìm cách tham gia vào cái chết này, bởi bằng chứng chỉ được phơi bày với một nhân chứng và những nấm mồ sẽ phủ lên xác người, vì người truyền tin về con ngựa khụy ngã, nhân danh diễn ngôn và câm lặng, để vơi đi buồn chán trong nỗi chờ đợi một cái chết không thể tránh khỏi. Bởi lũ quái thú mình đồng da sắt này đang gầm lên rằng chúng sẽ không buông tha ai trong hòa khí, và sẽ chẳng một ai đếm những xác người.

Tôi lừa dối bản thân rằng: Chẳng cần tìm kiếm bất kì dòng miêu tả nào về quang cảnh xung quanh hay nội tâm bất an đang rò rỉ. Sự thật là tôi sợ hãi mình sẽ rơi vào hoang tàn đổ nát để rồi trở thành miếng mồi cho một tiếng rên không ai nghe thấy. Điều đó thật rất đớn đau. Đau như thể chính mình đang đi qua nỗi đau ấy, như thể mọi thứ đã xảy ra rồi. Và tôi ở ngay đó, dưới tấn gạch vụn. Tôi cảm thấy nỗi đau đang dày xéo những con thú bị nghiền nát vang vọng từ tâm khảm. Một tiếng khóc bật ra trong đau đớn mà chẳng ai nghe thấy. Nỗi đau như một bóng ma, đến từ phía ngược lại - từ những gì có thể xảy ra. Có những người chân trúng đạn vẫn còn cảm thấy cái đau nhói thịt tận vài năm sau khi chân đã bị cắt. Họ vươn tay chạm vào nỗi đau ở nơi chẳng còn cẳng chân nữa. Cơn đau tưởng tượng như một bóng ma ấy có lẽ sẽ bám theo họ đến ngày cuối cuộc đời. Nhưng tôi lại cảm thấy cái đau của một vết thương chưa xảy đến. Đôi chân tôi đã ở đó, gãy nát dưới đống gạch vụn.

Đây là điềm báo cho tôi. Có lẽ tôi sẽ không ra đi trong ánh chớp lòa của pháo kích khi chưa kịp nhận thức điều gì đang xảy ra. Có lẽ một bức tường sẽ chầm chậm đổ xuống thân xác này, khiến tôi đi qua một đau đớn kéo dài đến thiên thu, tôi gào khóc, nhưng không một ai nghe thấy. Có lẽ cẳng chân, cánh tay và cả hộp sọ tôi sẽ bị nghiền nát. Hoặc lồng ngực tôi bị đè chặt để rồi thoi thóp tận vài ngày sau, khi chẳng một ai có đủ thời gian đi tìm thịt da còn sót lại của người xa lạ trong đổ nát. Có lẽ mảnh thủy tinh từ tròng kính vỡ sẽ găm vào đôi mắt khiến tôi mù lòa. Hay một cây cọc sắt sẽ xiên qua mạn sườn, hoặc tôi nằm đó chìm dần vào lãng quên, bên đống thịt thối bị xé nát thành từng mảnh nhỏ vùi trong cát bụi.

Nhưng tại sao tôi lại quan tâm đến nơi chốn lẫn những điều sẽ xảy đến với xác chết của chính mình? Tôi không rõ. Tôi mong muốn một đám tang chỉnh tề cùng một cơ thể toàn vẹn không nát vụn từng mảnh, được đặt ngay ngắn trong một quan tài gỗ, với một lá cờ bốn màu rõ rệt phủ lên trên (dẫu cái tên đến từ một dòng thơ mà âm thanh phát ra không diễn đạt được ý nghĩa của chúng) và bè bạn sẽ khiêng tôi trên vai, bên những người vừa là bạn, mà cũng là kẻ thù.

Và tôi muốn vòng hoa kết từ hoa hồng vàng và đỏ. Tôi không thích màu hồng rẻ tiền, và xin đừng mang đến Tử Linh Lan, vì chúng tỏa mùi cái chết. Tôi muốn có một phát thanh viên không ba hoa lắm mồm, giọng không khàn đục và có thể diễn một vở sầu bi thuyết phục. Giữa những đoạn băng phát lại lời tôi từng nói, tôi muốn anh ta phát biểu vài lời. Tôi muốn một đám tang gọn gàng và bình thản; và tôi muốn nó thật hoành tráng, không phải một dịp tụ tập mà là một sự tiễn đưa đẹp đẽ. May mắn làm sao kẻ đã chết trong ngày đầu tang lễ, khi bao người thăm viếng tranh nhau ca tụng họ! Trong ngày hôm đó, họ là hiệp sĩ, là người yêu, là người trong sạch nhất! Không lời vu khống, không lời nguyền rủa, không cả tỵ hiềm. Và bởi vì chẳng có vợ con, mọi sự sẽ càng tuyệt vời hơn cho tôi hơn nữa. Những bè bạn tôi chẳng cần tốn sức đọc một điếu văn dài thê lương không hồi kết cho đến khi người góa phụ mủi lòng thương người đương phát biểu. Những đứa trẻ cũng giữ được phẩm hạnh của chúng, vì chẳng phải chầu chực trước cửa viện hành chính vận hành bởi một lũ quan liêu theo kiểu bộ lạc. Tuyệt làm sao bởi tôi chỉ một mình, một mình và một mình thôi. Vì lí do đó mà tang lễ của tôi không cần phúng điếu để không ai phải lo lắng về việc có đi có lại, và khi hậu sự xong xuôi, những người đưa tang có thể quay lưng bước về đời sống thường nhật. Tôi muốn một cỗ áo quan tao nhã, và nằm trong đó tôi dõi mắt ra nhìn đoàn người thăm viếng, như những gì biên kịch Tawfiq al-Hakim từng toan tính. Tôi muốn quan sát cách họ đứng, đi lại, thở dài, cách họ biến nước bọt thành những giọt nước mắt. Tôi cũng muốn nghe trộm những lời mỉa mai: “Hắn từng trăng hoa lắm.” “Hắn bảnh bao diêm dúa cực kì.” “Tấm thảm trong nhà hắn dầy lông ngập đến gối.” “Hắn có một lâu đài bên vùng duyên hải Pháp, một biệt thự ở Tây Ban Nha và một tài khoản bí mật tại ngân hàng Zurich. Hắn cũng bí mật sở hữu một phi cơ riêng và năm chiếc siêu xe tại tầng hầm ở Beirut.” “Bọn này không chắc hắn có một du thuyền ở Hy Lạp không, nhưng nhà hắn chất đầy vỏ ốc đủ để xây cả một trại di tản.” “Hắn lừa dối đàn bà.” “Nhà thơ đã chết, mang theo tất cả thi ca. Và còn gì sót lại? Vai trò của ông đã chấm dứt và chúng ta sẽ khép lại huyền thoại về ông. Ông ấy mang theo những bài thơ rồi biến mất. Dù sao thì ông ấy từng có một cái mũi dài, lưỡi ông cũng thế.” Khi trí tưởng tượng được thả rông thì tôi sẽ còn nghe nhiều điều khắc nghiệt hơn vậy nữa. Nhưng tôi sẽ cười trong cỗ áo quan của mình và thử cất tiếng rằng, “Đủ rồi đấy!” Tôi thử quay lại cuộc sống, và tôi sẽ thất bại.

Nhưng không, tôi sẽ không chết tại đây! Dưới đống gạch vụn này. Tôi sẽ giả vờ mình đang tản bộ dưới phố tìm mua một tờ báo. Nỗi sợ là một sự ô nhục giữa cơn sốt chủ nghĩa anh hùng đang bùng nổ - từ những người vô danh trên tiền tuyến đến những linh hồn giản dị đã chọn ở lại Beirut, cống hiến những ngày còn lại đi tìm nguồn nước rót đầy một can hai mươi lít dưới trận mưa bom, họ kéo dài phút giây phản kháng và lòng kiên định trong dòng lịch sử, rồi đối diện trước những mảnh sắt nổ tung giữa trận chiến, họ trả giá bằng chính thịt da của mình. Anh hùng ở ngay đây, ngay chính phần bị chia cắt tại Beirut này giữa trưa hè bỏng lửa. Đó là Tây Beirut. Người ngã xuống tại đây chẳng phải tình cờ. Và những ai còn sống thực là may mắn, vì không một khoảng đất nào đạn pháo chừa ra và chẳng có đến một chỗ đặt chân mà không phát nổ. Nhưng tôi không muốn chết đi dưới đống gạch vụn. Tôi muốn nằm xuống trên con đường trải rộng.

Bỗng nhiên lũ giòi bọ, từng nổi tiếng trong một bộ tiểu thuyết nào đó, bủa vây khắp người tôi. Những con giòi trật tự xếp thành từng hàng theo màu sắc, chủng loại để tiêu hóa một xác chết, chúng lột thịt khỏi xương sạch sẽ chỉ trong vài phút. Một cuộc đột kích, rồi hai, và chẳng còn lại gì ngoài xương trắng. Những con giòi xuất hiện chẳng từ nơi đâu, từ trong lòng đất, từ bên trong chính xác chết ấy. Nhờ có đội quân vô cùng nghiêm túc này mà cái xác ngấu nghiến chính nó chỉ trong vài khoảnh khắc. Chắc chắn hình ảnh này sẽ rút cạn một người đàn ông khỏi lý tưởng anh hùng lẫn xác thịt, tống anh ta vào trong sự trần trụi của số phận điên rồ, một sự điên rồ tuyệt đối, hư vô tuyệt đối; một bức tranh lột trần khúc hát khỏi những lời tụng ca cái chết, lột trần sự trốn chạy để anh ta lao vào chiến đấu. Phải chăng để vượt qua sự thật xấu xí này mà trí tưởng tượng của con người - những thần dân ngụ trong xác chết – đã mở ra một không gian để cứu rỗi linh hồn khỏi hư vô? Phải chăng đây là giải pháp được đề xướng bởi tôn giáo và thi ca? Biết đâu. Biết đâu đấy…

- Mahmoud Darwish

----

(Hoài Phương dịch)

From English translation by Ibrahim Muhawi

Ảnh: Chân dung Mahmoud Darwish được chụp bởi nhiếp ảnh gia Leonardo Cendamo tại Turin, Italy

Bởi không ai nhận diện được xác của chính mình, nên tôi không thể by Phuong Nguyen

“Bởi không ai nhận diện được xác của chính mình, nên tôi không thể”
Omar Ziyadeh
From English translation by Alice S. Yousef
——

(1)
Tôi ngồi trước màn hình, dòng suy tư như bệnh viện dưới mưa bom
Ai đó đang đào bới
họ đào sâu vào thâm tâm tôi đi tìm ngôi mộ cuối.
Đâu là nơi nghỉ ngơi cuối cùng, nấm mồ cuối cho những gì đang xảy ra?
Người tử đạo nằm trong túi nhựa màu lam,
đổ vào nấm mồ tập thể như dòng sông chảy tràn.
cái chết ở đây… chết đi như chưa ai từng thấy:
không bác sĩ, không nhà tang lễ, không người hộ tang.
Một cái chết chẳng như chính nó
to lớn hơn những gì nó có thể níu giữ
to lớn hơn những gì nó có thể kháng cự.
Những gia đình chẳng còn miệng để cất tiếng:
chúng tôi từng ở đây.
Người mẹ mang bầu đứa con không bao giờ chào đời,
dạ con mở rộng cho những sinh linh muốn quay lại
đã bị dội bom
ngựa… tan thành từng mảnh
chim… rã ra từng phần
mèo… đoạn thịt đứt rời
những xe lừa kéo
không kẻ sống sót
hướng về phương nam.
Nhân viên cứu hộ chạy đến căn nhà
đã chết đi một tuần trước
mà không ai biết họ là ai.

(2)
Ôi Gaza,
Ôi Hiroshima,
le lói sáng như da loài cầm thú
bên ngưỡng cửa quá khứ,
Ôi Carthage
Ôi thành Troy vây hãm,
với những con ngựa bội phản,
Ôi Sarajevo…
Những trái táo đượm máu,
Đừng đi về phương nam,
chúng tàn sát rừng cọ ở đó
bên lề biên giới.
Đừng đi về phương bắc
nơi đó đầy ắp tử thi như hàng mi trên đôi mắt đứa con các người.
Đừng đi về hướng đông,
nơi những bức tường máu chảy thành sông
từ khi thời gian bắt đầu.
Đừng đi về hướng tây,
đó là nơi chúng dựng đầy giá treo cổ
giữa sa mạc mênh mông trải rộng…

--
(Hoài Phương dịch)
Bài thơ được sáng tác đầu năm 2014, đây là đoạn trích đoạn từ một bài thơ dài hơn cùng tên của tác giả được dịch bởi Alice D. Yousef
Bài thơ được đăng tải trên trang “Word without borders” ngày 23 tháng Giêng 2024.

Omar Ziyadeh là nhà thơ Palestine sinh năm 1987 tại Nablus. Anh có bằng cử nhân về Anh ngữ và bằng thạc sĩ về ngôn ngữ và dịch thuật từ đại học An-Najah ở Nablus. Anh đã xuất bản hai tập sách: Con chó mù đi dạo (Kelab Amyaa’ Fe Nozha, tuyển tập thơ được nhận giải từ tổ chức Abdel Mohsin Al-Quattan và giải Mokhtalaf Feed.

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua rất khác... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

The Water of the Nile
Frederick Goodall (1822–1904)
Manchester Art Gallery

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua rất khác...
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua thật khác lạ…
mỗi khoảnh khắc là kỷ niệm tái sinh trong cánh chim
dòng sông Nile. Tôi đã ở đó. Con người ở đây
là tạo vật của Thần Mặt Trời. Không ai tự gọi chính mình
bằng tên: “Ta là đứa con của sông Nile, cái tên này với ta
là đủ.” Từ giây phút đầu tiên, anh gọi bản thân
“đứa con của sông Nile” như né tránh gánh nặng của vực thẳm.
Ở đó, người sống kẻ chết hái những đám mây bông gòn
ở Thượng Ai Cập, họ trồng lúa mì
xuôi vùng Châu Thổ. Chắn giữa người sống
và người chết, hai lính gác thay nhau quan sát
hàng cây. Những điều lãng mạn tồn tại trong anh,
anh bước đi bên mép vực linh hồn, lạc trong mê cung thời gian, như thể trước khi chào đời, Mẹ Ai Cập
đã hạ sinh anh trước trong hình hài đóa sen.
Anh có hiểu chính mình chưa? Ai Cập rón rén ngồi
Xuống bên chính nó: “Không có thứ gì giống ta.”
Nó vá tấm áo của thiên thu cũ sờn cùng làn gió thổi tới
từ khắp nơi. Tôi đã ở đó. Nhân loại
viết nên minh triết của Sinh-Diệt. Mọi thứ
thật lãng mạn dưới ánh trăng … chỉ trừ bài thơ
ngoái đầu tìm kiếm một ngày mai, trầm tư
trước sự bất tử nhưng chỉ có những câu từ yếu ớt
bật ra trước dòng sông Nile trải rộng.

——

(Hoài Phương dịch)

"Hãy nghĩ về người khác" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Hands”, Christks Bokoros

Hãy nghĩ về người khác
Mahmoud Darish (1941 - 2008)
English translation by Mohammed Shaheen
—-

Hãy nghĩ về người khác khi chuẩn bị bữa sáng
(Đừng quên phân phát thức ăn đến lũ chim câu)
Hãy nghĩ về người khác khi phát động chiến tranh
(Đừng quên những người chỉ mưu cầu hòa bình)
Hãy nghĩ về người khác khi thanh toán hóa đơn nước
(Những người chỉ nguôi ngoai cơn khát nhờ đám mây)
Hãy nghĩ về người khác trên nẻo đường hồi hương
(Đừng quên bao mảnh đời sống trong lều bạt)
Hãy nghĩ đến người khác khi say ngủ và đếm những vì sao
(những người chẳng còn nơi nào để chợp mắt)
Và khi lời ẩn dụ mang đến tự do, hãy nghĩ cho người khác
(Bởi quyền lên tiếng của họ đã bị tước đoạt)
Hãy nghĩ về chính mình khi mặc tưởng trước những mảnh đời xa xăm
(Hãy nói rằng: Giá tôi là ngọn nến giữa màn đêm sâu thẳm )

—-

(Hoài Phương dịch)

Think of Others” by Mahmoud Darwish, from Almond Blossoms and Beyond. Translated from the original Arabic by Mohammed Shaheen. © Interlink Books, 2010.

 

Đêm và nàng chỉ một mình... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

The Automat, Edward Hopper

Đêm và nàng chỉ một mình
Mahmoud Darwish
From English translation by Omnia Amin and Rick London
——

Đêm đã đến và nàng chỉ một mình,
cô độc, cũng như ta
giữa ngọn nến trước mặt ta và nàng là hai chiếc bàn trống
trong nhà hàng một tối mùa đông.
Không điều gì quấy nhiễu thinh lặng giữa đôi ta
Nàng không biết ta đã trộm nhìn khi nàng bứt cánh hoa hồng
từ trên lồng ngực, và ta không biết nàng đã thấy ta
hớp một nụ hôn từ cốc rượu nồng…
Nàng không đánh rơi vụn bánh mì và ta cũng không vấy nước
trên khăn bàn.
Không điều gì quấy nhiễu bình yên giữa chúng ta
Nàng một mình, cũng như ta kề bên vẻ đẹp của nàng. Tại sao
tổn thương không mang ta đến bên nhau? Ta tự hỏi. Tại sao
không thử nếm giọt rượu của nàng. Nàng không biết ta đã thấy
cách nàng gác đôi chân và ta không biết nàng đã liếc nhìn
khi ta cởi áo khoác. Ta không làm gì khiến nàng phiền mắt
và nàng cũng chẳng làm gì quấy nhiễu ta, chúng ta hòa âm
trong sự quên lãng…
Bữa tối chỉ hai người cô độc mới ngon miệng làm sao.
Giọng nói của đêm xanh thẳm, ta không cô đơn
và nàng cũng vậy bởi ta đang cùng lắng nghe
những âm điệu thủy tinh ấy.
Không điều gì quấy rầy chúng ta đêm nay.
Nàng không nói rằng:
Tình yêu chào đời như một sinh thể sống
rồi dần hóa thành một khái niệm.
Và ta cũng không nói rằng:
Tình yêu chỉ còn là khái niệm…

Nhưng dường như là vậy đấy.

——
(Hoài Phương dịch)



Không lá cờ tung bay trong gió... by Phuong Nguyen

The Standing Bearer, Unfolding the Holy Flag
Jean-Leon Gerome

Không lá cờ tung bay trong gió…
Mahmoud Darwish
From English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Không lá cờ tung bay trong gió
Không tuấn mã trôi dạt khi gió nhẹ thổi qua
Cũng không tiếng trống dồn khi làn sóng vỗ…
Hôm nay chẳng điều gì xảy ra giữa tấn bi kịch.
Bức màn hạ xuống, cả nhà thơ lẫn khán giả
đều đã rời đi – không còn cây bách, không chuyến diễu hành,
không cành ô-liu đón chào thuyền nhân đến,
họ mỏi mệt vì cánh mũi rướm máu và hồi cuối nhẹ như không
như thể họ dịch chuyển từ số phận này
qua số phận khác, một định mệnh được viết tràn dòng chữ,
một người nữ Hy Lạp đang đóng vai
người đàn bà thành Troy, trắng như màu đen,
không vỡ tung cũng chẳng cao thượng, và không ai hỏi rằng:
“Điều gì sẽ xảy đến ngày mai?”
“Cái gì sẽ tới sau đoạn dừng đầy chất Homer này?”
…như thể mọi thứ chỉ là một giấc mơ đẹp
nơi tù binh chiến tranh thanh thản
với sự sòng phẳng của những đêm dài trước mắt,
như thể họ đang nói rằng:
“Chúng ta hàn gắn vết thương cùng muối mặn”
“Chúng ta sống bên cạnh ký ức”
“Chúng ta sẽ thử chết đi một cách bình thường”
“Chúng ta đợi chờ phục sinh, tại đây, trong lãnh địa của hắn
trong một chương sắp đến khi hồi cuối đã qua…”

—-

(Hoài Phương dịch)

" Anas Al-Yazij gửi đến hôn thê Shaima Abu Al-Ouf, khi anh tìm thấy xác nàng hai ngày sau đó" by Phuong Nguyen

“Anas Al-Yazij gửi đến hôn thê Shaima Abu Al-Ouf, khi anh tìm thấy xác nàng hai ngày sau đó”
Hamed Ashour (1994 - )
——

Shaima à,
Ta yêu nàng rất nhiều, ta yêu nàng xiết bao
ta đang bị tấn công lần nữa
từ khi chúng ta gác máy ba ngày trước,
lúc năm đầu đạn thổi tung nhà nàng.
Từ lúc chúng ta thử áo cưới, một tối vẽ henna
từ những lời cuối ta trao, một giai đoạn hạnh phúc làm sao.

Từ lễ Eid và những tiếng gào thét
từ những hàng xóm, bè bạn, bao ngày lễ thành hôn
từ đứa con đầu ta trì hoãn đến sự bướng bỉnh của nàng
Ta nói rằng, “Ta chỉ muốn một đứa con.”
Nàng trả lời, “Không, em muốn có cả một gia tộc.”

Ta yêu nàng vô cùng, nhiều biết mấy, và ta đang bị tấn công một lần nữa,
tay đút túi, tâm trí ta nằm trọn lòng bàn tay.
Ta cất lời rằng, “Ôi Shaima,
một chiến cơ vừa mới bay qua,
cả chuông đồng lẫn tháp giáo đường đều sụp đổ.”

Và nàng nói rằng, “Sẽ không sao đâu, cánh chim câu còn đó.”
Ta nói, “Cửa sổ vỡ tung rồi”
Nàng trả lời, “Chẳng phải đó là cách ánh sáng được tự do?”
Ta yêu nàng biết bao.

Nhưng giờ đây ta bị tấn công, như từ muôn thuở,
ta bị chôn vùi dưới gạch vụn.
Lũ khốn và bọn thương nhân sẽ đến tụ tập họp bàn,
chúng đấu giá quê hương ta với một nhúm sống còn ít ỏi,
chúng sẽ thành lập ủy ban, dựng lại tháp đổ, sửa sang những căn nhà tan nát.

Còn căn nhà của chúng ta, hỡi tình yêu,
mái ấm mà ta đắp nên với từng hòn đá trước khi hóa đơn và nợ nần chồng chất
trước khi chúng ta chìm trong cãi vã – màu sắc chiếc sofa, những bức tường
và ở một góc vườn nhà nơi ta gieo mầm một cây nho bé nhỏ.

Chúng ta sẽ lấy lại những con đường
những tháp giáo đường, vườn cây, lấy lại dòng điện và những ống nước
Ta nói rằng, một khi ngừng bắn, ai sẽ trả lại dòng máu cho Shaima!
Chúng ta sẽ lấy lại những con đường
những tháp giáo đường, sân sau, lấy lại điện năng, lấy lại nguồn nước.
Ta thét gào, “Bom đã ngừng rơi, nhưng ai sẽ trả lại huyết mạch của Shaima?”

——
(Hoài Phương dịch)

Hamed Ashour (1994 - ) Một nhà thơ trẻ sinh ra và lớn lên tại dải Gaza. Anh đã có bằng cử nhân về phát triển xã hội tại đại học Al-Quds Open University vào năm 2017 và đã làm việc như một nhân viên xã hội. Các tác phẩm thi ca của anh đã được xuất bản qua những tạp chí văn chương khu vực.

"Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm" by Phuong Nguyen

The First Born
Frederick Goodall
1862  

“Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm”
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm – Điều này ta khẳng định
trong thầm kín. Ta nói với nhân cách kia rằng:
Nơi đây ký ức của ngươi bất chợt hữu hình:
Buổi trưa tẻ nhạt khi chú mèo ngái ngủ,
chiếc mào gà trống,
mùi lá xô thơm,
hương cà phê của mẹ,
tấm chiếu cói cùng chiếc gối êm,
một con ruồi lượn quanh Socrates,
đám mây phủ trên đầu Plato,
tập sách Diwan al-Hamasa*
bức ảnh của cha
kẹp giữa trang sách Mu’jam al-Buldan,**
những dòng Shakespear đã viết ra
ba người anh trai, ba cô em gái,
vài đứa bạn thuở nhỏ -
và một đám đông bao đồng:
“Là hắn phải không?”
Những nhân chứng lắc đầu:
“Có lẽ”
Tôi hỏi:
“Vậy hắn là ai?”
Không ai đáp lời.
Ta thầm thì hỏi nhân cách khác:
“Phải chăng đó là ngươi… là chính ta?
Hắn lảng tránh.
Những nhân chứng hỏi mẹ ta để chắc rằng
hắn chính là ta
và bà đã sẵn sàng cất lên tiếng hát
bài ca của chỉ riêng bà:
“Dẫu ta là đấng sinh thành
nhưng ngọn gió đã nuôi nấng con trai ta.”
Rồi ta nói với một ta khác rằng:
“Trừ mẹ ngươi ra, đừng tạ lỗi trước bất kì ai.”

—-

(Hoài Phương dịch)

*Diwan al-Hamasa: Tuyển tập cổ thi gồm mười cuốn được tổng hợp vào thế kỷ thứ 9 bởi Abu Tammam, một nhà thơ người Ả Rập sinh ra tại một làng nhỏ gần Damascus, Syria hiện đại. Bên cạnh Asma'iyyat, Mufaddaliyat, Jamharat Ash'ar al-Arab và Mu'allaqa (Tên các tuyển tập cổ thi khác, đôi khi được nhắc đến trong các bài thơ của thi sĩ Palestine), al-Hamasa được xem như một trong những kho tàng cổ thi quan trọng nhất trong nền văn học Ả Rập.

**Mu’jam al-Buldan: Bách khoa toàn thư các vùng đất và đế chế được viết ra bởi Yaqut Al- Hamawi, một nhà địa lý Ả Rập gốc Hy Lạp sinh ra tại Byzantium (còn được gọi là Constantinople, Istanbul hiện đại) Bộ bách khoa toàn thư này được ông biên soạn vào thế kỷ thứ 12, tổng hợp hầu hết những kiến thức thời trung cổ về địa lý khắp thế giới và nội dung sách trải dài từ khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử, nhân loại học, khoa học tự nhiên, kiến thức địa lý cũng như tọa độ các vùng đất, kinh thành, làng bản, kèm theo danh sách về những thành tựu, tượng đài quan trọng, người cầm quyền cũng như số lượng của cải và dân số vùng đất đó. Đây là một tài liệu rất quan trọng với các học giả người Ả rập và vẫn còn giá trị tham khảo cho đến ngày nay.

"Ta có trí khôn của một kẻ chịu tội" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

The Death of Socrates
Jacques-Louis David, 1787

"Ta sáng suốt như một kẻ chịu tội"
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Ta sáng suốt như người thụ án tử hình,
Vì vô sản nên không điều gì sở hữu được ta
di thư ta viết nên rỉ ra từ dòng máu:
“Hỡi thần dân trong khúc hát ta: hãy tin vào dòng nước”
Ta mơ thấy mình bị đâm xuyên, được trao mũ miện bởi những ngày mai…
Ta mơ thấy trái tim vùng đất này thật vĩ đại
vượt xa khỏi bản đồ,
trong sạch hơn gương soi
lẫn chiếc giá đợi ta đến treo cổ.
Ở vầng trời cao ta lạc lối giữa mây trắng dập dìu
như thể ta là chú chim đầu rìu
và ngọn gió đã hóa thân thành đôi cánh.
Rồi hừng đông đến, tiếng quát từ lính gác đêm
dựng ta dậy từ cõi mộng cùng những ngôn từ:
Ngươi sẽ sống thêm một lần chết khác,
nên hãy xem lại di thư,
giờ tử của ngươi một lần nữa trì hoãn.
Ta hỏi: Tới khi nào?
Hắn trả lời: Đến khi ngươi đã chết thêm vài khắc.
Ta nói rằng: Ta vô sản nên không điều gì trói buộc ta
và chúc thư của ta rỉ ra từ dòng máu:
“Ôi những thần dân trong khúc hát ta: hãy tin vào dòng nước.”

—-

(Hoài Phương dịch)

Tranh: "The death of Socrates", Jacques-Louis David, 1787

Từ tuyển tập thơ "Now, As You Awaken" (2006) tuyển dịch bởi Omnia Amin and Rick London gồm các bài thơ của Mahmoud Darwish được chọn lọc từ tập thơ “Don’t apologize for what you have done” xuất bản bởi El-Rayyes Books, Beirut, 2004

"Không lời tạ tội với giếng sâu" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Truth Coming Out of Her Well
Jean-Léon Gérôme, 1896

"Không lời tạ tội với giếng sâu"
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Ta đã không tạ tội với giếng sâu khi bước ngang đó.
Ta mượn nhờ đám mây từ cành thông cổ rồi bóp nát nó
như một quả cam. Đợi chờ một linh thần nai trắng.
Ta bảo trái tim mình nhẫn nại: Giữ lòng trung lập, dẫu cho
ngươi chẳng phải một phần trong ta. Tại đây, những gã mục đồng
đứng ở trên không, làm ra sáo trúc và rù quyến những chú gà lôi
vùng núi cao, lùa chúng vào cạm bẫy. Tại đây,
trên lưng ngựa ta bay đến những hành tinh của chỉ riêng ta, bay thật xa.
Tại đây, một nhà chiêm tinh từng bảo ta rằng: Hãy cẩn thận với con đường trải nhựa
và những chiếc xe cơ giới, hãy cưỡi đi trên tiếng thở dài. Tại đây, ta tháo rời
cái bóng của chính mình, rồi chờ đợi. Ta chọn hòn đá nhỏ nhất
rồi bên nó ta đứng chờ, tỉnh thức. Ta đã đánh vỡ một huyền thoại
để rồi chính mình cũng tan nát. Ta đảo quanh miệng giếng đến khi
rời khỏi chính mình bay đến bên một nhân dạng khác. Giọng nói cất lên
từ sâu trong lòng giếng vang: Nấm mồ này
chẳng thuộc về ngươi. Vậy nên ta nói lời xin lỗi. Ta ngâm lên vài lời
thật thông thái từ Thiên Kinh, và nói với người xa lạ
dưới giếng kia rằng: Bình an ở bên anh, bên cái ngày anh đã bị giết
trên vùng đất của hòa bình, bình an ở bên anh ngày anh vươn lên
từ sâu thẳm lòng giếng tối tăm
và anh sẽ sống…

—-

(Hoài Phương dịch)

 

"Không gì hơn ngoài Iraq" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Không gì hơn ngoài Iraq”
Mahmoud Darwish
English translation by by Elissar Haikal

——

Ta nhớ Al-Sayyab ở vùng Vịnh cất tiếng gào trong tuyệt vọng
“Iraq, Iraq, không gì hơn ngoài Iraq…”
Ta nhớ Al-Sayyab… giữa bình nguyên Sumeria trải rộng
bóng hình người đàn bà chinh phục màn sương cằn cỗi
hòng truyền lại cho chúng ta quê nhà cùng sự lưu vong.
Ta nhớ Al-Sayyab… thi ca được sinh ra tại Iraq,
Nên người Iraq ai cũng là thi sĩ, bạn ta ơi!
Ta nhớ Al-Sayyab… cuộc đời chẳng như ông kỳ vọng
giữa dòng Tigris và Euphrates, ông không mặc tưởng
như Gelgamesh từng nghĩ về ngọn cây vĩnh hằng lẫn ngày Phán Xử.
Ta nhớ Al-Sayyab… người vâng theo luật lệ Hammurabi
che đi hạ bộ của mình rồi bước đến huyệt mộ
Ta nhớ Al-Sayyab khi vật lộn trong cơn sốt và mê sảng:
Các anh ta nấu bữa tối cho đội quân Hulagu
Chẳng phải người hầu kẻ hạ… mà là các anh ta!
Ta nhớ Al-Sayyab…chúng ta chẳng mơ ước gì lớn lao
hơn giá trị một con ong cho sự sống, không gì lớn lao
hơn đôi tay bé nhỏ đang khuấy động sự vắng mặt...
Ta nhớ Al-Sayyab… những thợ rèn đã chết vùng lên
từ nấm mồ hòng đúc cho ta xiềng xích!
Ta nhớ Al-Sayyab… thi ca là trải nghiệm, là lưu vong
là cặp song sinh, chúng ta mơ một cuộc đời
chẳng xa vời hơn sự sống, mơ một cái chết chỉ đơn thuần được chết:
“Iraq, Iraq, không gì hơn ngoài Iraq… ”  

——

This poem appeared in Al Jadid, Vol. 9, no. 44 (Summer 2003)
Copyright (c) 2003 by Al Jadid

(Hoài Phương dịch)

Hắn im lặng và ta cũng thế (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Nighthawk, Edward Hopper

Hắn im lặng và ta cũng thế
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Hắn im lặng và ta cũng thế.
Hắn hớp một ngụm trà với chanh, còn ta uống cà phê.
Đó là sự khác biệt giữa ta và hắn.
Cũng như ta trên mình hắn khoác áo sọc rộng,
Và hệt như hắn trên tay ta cầm số báo đêm.
Hắn không thấy ta đang trộm nhìn.
Ta không thấy cái liếc vội từ hắn.
Hắn thật im lặng, và ta cũng thế.
Hắn bất chợt gọi bồi bàn đến.
Rồi ta cũng hỏi bồi bàn một thứ gì đó…
Một con mèo đen bước giữa chúng ta.
Ta cảm nhận được màn đêm trong bộ lông của nó
và hắn cũng cảm thấy thinh khuya náu mình trong bộ lông đó...
Ta chẳng nói với hắn rằng: Bầu trời hôm nay
thật trong xanh.
Hắn cũng không nói với ta: Trời trong thật.
Hắn bị dõi theo và là người quan sát.
Cũng như ta đang bị dõi theo khi đang quan sát.
Ta nhấc bàn chân trái.
Hắn dịch bàn chân phải.
Ta ngâm một giai điệu
rồi hắn cũng lầm bầm giai điệu đó.
Ta tự hỏi: Phải chăng hắn là tấm gương phản chiếu lại chính mình?
Ta xoay người nhìn vào mắt hắn… mà chẳng thấy hắn đâu.
Ta chạy vội khỏi quán cà phê.
Nghĩ thầm: Có lẽ hắn là kẻ sát nhân…
hoặc đơn thuần chỉ là người qua đường nghĩ rằng
Chính ta mới là kẻ sát nhân.
Hắn đang kinh sợ… và ta cũng thế.

—-

(Hoài Phương dịch)

Giờ đây, anh đã thức... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Dead Swan, Jan Weenix

Giờ đây, anh đã thức
Mahmoud Darwish
Translated by Omnia Amin and Rick London

—-

Giờ đây anh đã thức, hãy nhớ vũ khúc cuối
của thiên nga. Anh có nhảy múa cùng thiên thần
khi say ngủ? Há chăng cánh bướm
đã thắp sáng cho anh khi chúng cháy bùng trong
vĩnh hằng chói loá một đóa hồng? Có phải phượng hoàng
đã hiện ra và gọi tên anh dõng dạc?
Anh có thấy hừng đông trên ngón tay
những người anh yêu quý? Anh có chạm vào
giấc mơ bằng cả đôi tay, hay anh
đã để mặc chúng trong cõi mộng, rồi thình lình thức tỉnh
trước sự vắng mặt của chính mình? Người mơ không chối bỏ
giấc mơ, họ lóe sáng rồi tiếp tục
sống cuộc đời từng hiện hữu trong cõi mộng ấy…. Hãy nói cho ta hay
cách anh từng khiến giấc mơ sống dậy
và ta sẽ tiết lộ con người thật của chính anh. Còn bây giờ,
anh đã thức, hãy nhớ xem anh có làm điều gì trái
với giấc mơ. Và nếu anh đã làm sai, thì hãy nhớ lại
vũ khúc cuối cùng bầy thiên nga…

—-

(Hoài Phương dịch)

Bị giết và vô danh... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Cherub and skull, sculpture in a cemetry

Bị giết và vô danh…
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

—-

Bị giết và vô danh… Chẳng được lãng quên góp nhặt
cũng không rải rác cùng lòng tưởng nhớ… họ chìm vào lãng quên
trong ngọn cỏ mùa đông, trên đại lộ chắn giữa
hai câu chuyện dài, của người hùng và kẻ khốn khổ.
“Ta là nạn nhân.”
“Không, ta là nạn nhân duy nhất.”
Chẳng ai nói cho nhà thơ hay: “Phàm là nạn nhân thì không xuống tay với người cùng số phận.
Trong câu chuyện luôn có một người bị hại, một kẻ sát nhân.”
Từng một thời trẻ dại, họ hái hoa tuyết rơi
trên cây Bách thần của Chúa rồi đùa chơi
với những thiên thần nhỏ -
những đứa trẻ sinh ra cùng thời… trốn học cùng nhau khỏi tiết toán,
Khỏi bài học cổ thi hamasa, họ đến bên rào chắn
đùa giỡn với những chiến binh, một trò chơi ngây thơ của tử thần.
Họ chẳng nói với chiến binh rằng:
“Hãy cất súng đi rồi mở đường cho cánh bướm
đi tìm mẹ lúc hừng đông, để chúng tôi có thể vút bay
cùng đàn bướm rời xa giấc mộng này, bởi giấc mơ rất hẹp nơi ngưỡng cửa.”
Họ từng trẻ dại, ham vui, đùa chơi
với đóa hồng vùi mình trong tuyết, sau hai câu chuyện dài,
của người hùng và kẻ khốn khổ, rồi họ trốn đi cùng những thiên thần
đến một vùng trời thanh cao trải rộng…  

—-

(Hoài Phương dịch)