Mahmoud Darwish

Giữa vòng vây (III) by Phuong Nguyen

Tiếp theo Giữa vòng vây phần 1 và 2, đây là phần 3 của toàn bài thơ dài 27 trang được ông sáng tác vào năm 2002, trùng thời gian xảy ra cuộc khởi nghĩa Intifada lần thứ hai, khi rất nhiều nơi bị binh lính IDGAF vây hãm, trong đó Nhà Thờ Chúa Giáng Sinh ở Bethlehem bị vây trong 40 ngày. Khi mình bắt đầu dịch bài thơ này, những thước phim kinh hoàng đầu tiên về bệnh viện Al-Shifa vừa xuất hiện, và trong thời gian tiếp tục dịch bao tin tức dã man khác đã tuôn ra, trong đó có quang cảnh những ngôi mộ tập thể quá đau lòng ở bệnh viện Nasser. Toàn Gaza bây giờ là một vòng vây. Những vòng vây nối tiếp vòng vây, từ năm này qua năm khác...

---

Giữa vòng vây (III)
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Fady Joudah

-

(Gửi đến màn đêm: ) Dẫu ngươi có đòi hỏi công bằng
rằng “mọi thứ của anh phải dành cho tất cả”… cho người mơ lẫn bọn lính canh
gác mộng, thì ta vẫn thất lạc một tuần trăng, máu vẫn tuôn tràn
đẫm trong tấm áo, ôi hỡi đêm thâu…

*

Ta ủi an người cha khóc con rằng: “Gương mặt người tử đạo có Thánh thần chứng giám”
rồi sau đó không lâu, ta gửi ông lời mừng đứa con vừa chào đời.

*

(Gửi đến tử thần: ) Ta biết rõ chiếc xe tăng
mà ngươi cưỡi đến. Ta biết rõ ý đồ của ngươi… nên hãy rời đi
dẫu đã đánh rơi một chiếc nhẫn. Hãy tạ tội với toán lính và bọn sĩ quan,
hãy nói rằng: Cặp đôi vừa cưới ấy
đã thấy ta dõi nhìn, thế nên ta ngần ngại
rồi ta thả người vợ đẫm nước mắt ấy đi
về bên gia đình cô… chỉ một mình.

*

Thánh thần… ôi hỡi Thánh Thần! Vì sao người đã bỏ rơi con
khi con chỉ mới là đứa trẻ… vì sao người chưa trao cho con thử thách?

*

Người mẹ kể rằng:
Tôi nào có thấy con bước đi khi máu chảy
nào có thấy đóa hoa tím rơi thắm bàn chân con.
con trai tôi khi nãy còn đứng dựa tường
với cốc trà bông cúc trong tay
khói ấm dâng tràn,
miên man nghĩ đến ngày mai…

*

Người mẹ kể rằng: Mới đầu tôi đâu rõ
ngọn ngành câu chuyện. Họ nói rằng: Con trai chị
vừa kết hôn chỉ một lúc trước. Tôi sung sướng hòa cùng đàn người ca vang múa hát
cho đến khi đêm tàn. Rồi mọi người rời đi, chỉ còn
giỏ hoa tím kề bên rải rác, tôi mới hỏi rằng: Thế cô dâu và chú rể đâu?
Một ai đó trả lời: Nhìn kia, trên vòm trời, hai thiên thần
đang quấn quít bên nhau… Tôi lại nhảy múa cuồng điên
bên bao người ca vang, múa hát, cho đến khi tôi ngất đi
vì một cơn đột quỵ.
Khi nào tuần trăng mật của con mới qua đi
hỡi con yêu của mẹ?

*

Vòng vây sẽ còn kéo dài
cho đến khi quân chiếm đóng, lẫn người bị vây nhận thấy
nỗi buồn chán này
là một phần nhân tính.

*

Này lũ lính gác! Lẽ nào các người chưa chán?
đợi chờ những hạt muối của chúng ta lấp lánh trong giọt mồ hôi
và đóa hồng rực sáng trong vết thương hở toác
Các người chưa chán sao? Hỡi bọn lính gác?

*

Và đây nơi ta đứng vững, ta ngồi, bám trụ, hóa thành bất tử.
Bởi chúng ta có một mục tiêu:
được tồn tại.
Vì vậy mà ta sẽ khước từ tất cả:
Ta từ chối thiết kế của lá cờ
(Hỡi kẻ sống sót, ta sẽ hài lòng biết mấy
nếu biểu tượng các người chọn là một con lừa)
Ta từ chối biên soạn bản quốc ca
(Hỡi kẻ sống sót, ta sẽ hài lòng biết mấy
nếu các người hát về hôn lễ của chim câu)
Ta từ chối nghĩa vụ quân sự của phụ nữ
(Hỡi kẻ sống sót, ta sẽ hài lòng biết mấy
nếu quốc phòng được gửi gắm cho một người đàn bà)
Ta từ chối bàn về những phần trăm, cái gì của chung, của riêng
Ta khước từ tất cả. Chỉ một mục tiêu duy nhất:
là được sống, được tồn tại…
Rồi sau đó ta sẽ mở lòng cho những ngưỡng vọng khác.

*

Thẳm sâu, sâu thẳm
hiện tại tiếp tục ngân lên
khúc hát của chân tay,
bên kia chân trời mục tiêu ấy…

*

Trên đường đến tù giam, anh ta nói rằng:
Ngày xác thân này được giải phóng, tôi sẽ hiểu ra
tụng ca quê nhà chẳng khác gì
sự phỉ báng
chỉ là một công việc, như bao công việc khác.

*

Đất nước ở trước thềm bình minh,
hãy gọi đàn ngựa thức dậy
rồi nhẹ nhàng cất cánh,
nhẹ nhàng
vượt thoát khỏi giấc mơ
rồi hãy ngồi xuống khi vòm trời tô vẽ
dáng hình anh trên phiến đá thở dài.

*

Làm cách nào ta gánh vác tự do, làm cách nào nàng gánh vác ta?
Ta sẽ đi về đâu sau ngày hôn lễ, ta phải nói gì
với nàng vào lúc hừng đông: Liệu em đã say giấc nồng
bên ta? Giấc mơ về dải đất của bầu trời
có khiến em u sầu về sự tồn tại? Em có thức dậy an lành từ cõi mộng?
Em có muốn dùng chút trà, hay cà phê với sữa?
Em muốn nước trái cây hay nụ hôn của ta?
(Làm cách nào ta có thể giải phóng tự do của chính mình?) Hỡi những người xa lạ!
Ta nào phải tha nhân. Gường của ta cũng là của người.
Dẫu có hoang đàng, phóng túng, vô cùng, hãy rải rắc nhục thể này
như tđóa hoa trong hơi thở ngợp. Tự do ơi! Hãy để ta
làm quen với người. Đưa ta băng qua lằn ranh nghĩa lý
để từ hai, hóa một!
Làm cách nào ta gánh vác nàng, làm cách nào nàng gánh vác ta, làm cách nào
ta trở thành chủ nhân
và nàng hóa thân nô lệ. Làm cách nào để giải phóng tự do
trừ khi đôi ta rẽ hướng?

*

Chỉ cần một chút màu xanh mênh mông và vĩnh hằng
là quá đủ
để vơi đi gánh nặng thời cuộc
để rửa sạch vũng lầy ở nơi đây.

*

Vòng vây sẽ còn tiếp diễn
Cho đến khi ta cắt tỉa hàng cây
bằng đôi tay của bậc thánh nhân và những người y sĩ.

*

Thứ vòng vây ẩn dụ này sẽ còn tiếp diễn
tới khi ta vùng thoát khỏi đức khổ hạnh trầm ngâm:
đóa diên vĩ nhỏ lệ cho ngày ta đến
đóa diên vĩ khóc thương vào lúc ta đi
khi nơi chốn giương mắt nhìn thời cuộc vô ích.

*

Linh hồn ấy phải vỡ tan
rồi trên đôi chân trần nàng nhẹ nhàng tiến bước
đến bên ta, tay trong tay, như hai người bạn cũ
Chia cho nhau chiếc bánh mì xưa
và nửa ly rượu hồng từ thời cổ đại
cùng nhau dấn bước trên con đường dài
cho đến một ngày cuộc đời rẽ hướng:
Ta băng qua biên cương của tạo hóa. Còn linh hồn ta
nàng ngồi xuống trên một phiến đá cao
co rúm, cúi mình.

*

(Gửi đến thi nhân: ) Càng tách rời khỏi sự vắng mặt
ngươi càng dấn sâu hơn vào nỗi cô độc của thánh thần.
Nên hãy hóa thân thành “chủ thể” thất lạc
thành “khách thể” của chính ngươi.
hãy tồn tại trong sự vắng mặt.

*

(Gửi đến thi ca: ) Hãy vây hãm vòng phong tỏa này.

*

(Gửi áng văn xuôi: ) Hãy kéo ra bằng chứng
từ bách khoa toàn thư của bao học giả rồi ném vào hiện thực
một hiện thực đã bị bằng chứng xóa xổ.
rồi giải thích mớ tro tàn này.

*

(Gửi đến thi ca và áng văn xuôi: ) Hãy bay lên trời xanh
như cánh én mang đến mùa xuân bao phúc lành!

*

Ta viết những hai mươi dòng về tình yêu
chỉ để tưởng tượng rằng
vòng vây này
đã thoái lui được hai mươi mét!...

*

Hắn chừa chỗ cho lời mỉa mai:
chuông điện thoại không đổ
chuông cửa cũng chẳng reo
thế làm sao ngươi chắc chắn
rằng ta đã vắng mặt?

*

Hắn chừa chỗ cho vài khúc hát:
Ta chẳng thể đợi nàng giữa phút giờ ngóng trông
Bởi ta không thể đọc Dotoevsky
không thể nghe Om Kalhoum lẫn Maria Callas
hoặc bất kì ai khác. Khi ta đợi nàng, đôi tay bám rịt chiếc đồng hồ
đang dịch dần sang bên trái,
nơi thời gian chẳng tồn tại. Ta vừa đợi nàng
mà cũng chẳng đợi nàng,
điều ta đợi chờ là sự vĩnh hằng.

*

Anh ta cất lời: Nàng thích hoa gì?
Nàng đáp rằng: Những đóa cẩm chướng… tuyền một màu đen.
Anh nói tiếp: Nàng sẽ đưa ta đi về đâu
cùng những đóa cẩm chướng đen tuyền ấy?
Nàng thầm thì: Đến nơi ánh sáng hội tụ trong cõi lòng
rồi đi xa hơn… xa hơn… xa hơn nữa.

*

(Gửi đến Tình yêu: ) Hỡi tình yêu! Cánh chim của bao điều tiềm ẩn!
hãy giải phóng chúng ta khỏi sắc xanh vĩnh hằng, khỏi sự vắng mặt rùng mình trong cơn sốt.
Hãy bước vào căn bếp để cùng ta chuẩn bị bữa tối.
Ta sẽ nấu ăn còn nàng rót rượu,
hãy chọn khúc hát ca tụng
vị thế trung dung, cùng xúc cảm hỗn mang: nếu ai đó nói rằng
nàng là hậu duệ của loài jinn… hãy tin vào điều đó!
Và nếu họ nói rằng nàng chẳng khác chi cúm mùa… cũng hãy tin vào điều đó!
Hãy soi rọi bản thân rồi xé bỏ tấm mạng phủ lấy gương mặt. Giờ nàng ở đây
bên ta, thật hiền hòa tách từng búp tỏi, và sau bữa tối
nàng sẽ chọn cho ta một thước phim lãng mạn,
nơi đôi ta là chứng nhân cho hai người hùng ở nơi xa
nay đã hóa thành hai khán giả.

*

Buổi sáng đầu tiên sau chuỗi ngày vây hãm
Người con gái tiến đến bên người nàng yêu
nàng vận tấm áo mỹ miều và chiếc quần màu tro xám,
linh hồn nàng trong suốt như những quả mơ
vào tháng Ba: Ngày hôm nay chỉ dành cho riêng ta,
tất cả, hỡi người yêu dấu, nên xin người
đừng đến trễ, kẻo lũ diều quạ sẽ đậu kín bờ vai…
Rồi nàng cắn một mẩu táo khi đợi chờ niềm hy vọng
Trông ngóng người nàng yêu
mà giờ có lẽ
Người sẽ chẳng bao giờ đến.

---

(Còn tiếp)

(Hoài Phương dịch)

Ảnh: Di ngôn của các bác sĩ và thường dân khi bị vây hãm ở bệnh viện Al-Shifa, ảnh được dịch bởi Free Watermelon NOW

Giữa vòng vây (Phần 2) by Phuong Nguyen

"Giữa vòng vây" (Phần 2)
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Fady Joudah

----

Ánh chớp, tia sét và nhận thức
đều như nhau
Và chỉ một khắc nữa ta sẽ nhận ra đây phải chăng
là khải huyền…
Bạn thân ta sẽ hiểu rằng
bài thơ đã kết thúc
rồi hủy diệt chính kẻ từng chấp bút…

*
(Gửi đến nhà phê bình) Đừng luận chữ của ta
với một chiếc thìa, hay một cái bẫy!
Những lời vây lấy ta trong giấc ngủ
Những lời chưa từng được thốt ra
viết thành chính ta, rồi bỏ mặc ta
kiếm tìm giữa tàn tích mộng mị.

*

Hàng cây bách sau lưng tên lính, tháp giáo đường
canh giữ cho bầu trời đừng đổ sụp. Sau hàng rào kẽm gai
tên lính đứng đái – bên cỗ xe tăng thận trọng canh gác -
ngày thu đi qua khi sắc vàng đổ xuống
con đường thênh thang như thánh đường
ngày Chủ nhật
sau buổi kinh cầu…

*

Đất nước ở trước thềm bình minh
và chúng ta sẽ không khước từ
Công lao những người tử đạo ngã xuống
bởi trên mảnh đất này, chúng ta bình đẳng
Nhục thể họ nuôi dưỡng khóm cỏ xanh
ban phúc lành dẫn đường cho hòa khí.

*

Ngày mai ta sẽ yêu cuộc đời
Khi ngày mai tới, ta sẽ yêu cuộc sống như nó vốn là,
như sự xảo quyệt tầm thường
dẫu rực rỡ hay xám xịt ảm đạm
thì cũng chẳng có gì sau cái chết, không thể phục sinh.
Và nếu niềm vui là điều ta không thể tránh
xin giữ chúng nhẹ nhàng
trong tim, bên hai mạn sườn!
Bởi không một cựu binh trung thành
sẽ để niềm vui cắn phải anh ta… một lần nữa!

*

(Gửi đến kẻ sát nhân) Nếu ngươi từng ngẫm về những gương mặt ngươi đã giết
hãy nghĩ thật chậm, hẳn ngươi sẽ nhớ đến mẹ của ngươi
trong lò hơi ngạt, để rồi được giải phóng khỏi lí lẽ của súng đạn
Ngươi sẽ sực tỉnh nhận ra: đây không phải là con đường
để tìm lại căn tính!

*

(Gửi đến một kẻ sát nhân khác) Nếu ngươi để bào thai ấy được yên
chỉ ba mươi ngày thôi, mọi thứ đã đổi thay:
cuộc phong tỏa chấm dứt, và trong ký ức của sinh linh ấy
sẽ không có dấu vết của vòng vây,
bé trai ấy sẽ lớn lên thành một thiếu niên khỏe mạnh
Học cùng trường với một trong những đứa con gái ngươi
chúng sẽ học về lịch sử châu Á
cùng nhau quây quần trong chiếc tổ tình yêu
rồi hạ sinh một bé gái (có lẽ sẽ là người Do Thái)
Ngươi có nhận ra mình đã làm gì sai?
Bởi giờ đây con gái ngươi trở thành góa phụ
cháu gái ngươi giờ đã mồ côi.
Ngươi đã làm gì với gia đình của những người chạy nạn
Và làm sao ngươi có thể hạ sát
Ba cánh chim, chỉ bằng một phát đạn?

*

Ta vốn chẳng cần vần điệu
Chúng chẳng giúp gì cho giai âm
cũng không giúp làm dịu đi đau đớn
chúng dư thừa
như ruồi nhặng vây quanh yến tiệc.

*

Sương mù tăm tối, thứ bóng tối trắng tinh, đặc quánh
được bóc tách như vỏ cam bởi đôi tay người đàn bà.

*

Cô độc. Chúng ta cô độc đến thẳm sâu trầm tích
Chỉ đôi khi được viếng thăm bởi cầu vồng.

*

Chúng ta đã bao giờ làm hại ai? Đã bao giờ tấn công
một đất nước khác? Ngay cả khi đau đớn dội xuống
từ xa. Niềm vui như cơn mưa phùn chỉ tắm gội ta
một lần duy nhất.
Vòng vây là triền miên đợi chờ
trên chiếc thang nghiêng, giữa miền giông tố.

*
Ta còn những người anh em bên kia dải đất rộng,
những người anh em hiền hòa. Họ yêu thương ta.
Họ dõi theo trong nước mắt
và rồi thật lặng lẽ, họ kháo nhau rằng:
“Ôi… nếu chúng đã bị phong tỏa…”
rồi họ chìm vào câm lặng.
“Xin đừng bỏ đi, đừng bỏ mặc chúng tôi.”

*

Những bộ lạc xưa chưa từng viện đến Caesar
lẫn Khosrau, bao niềm hy vọng họ đặt vào thủ lĩnh Khalifah
bởi luật lệ của chúng ta được thông qua bởi người nhà.
Thế nhưng thời hiện đại khiến trái tim họ tha hóa
rồi họ đánh đổi những con lạc đà
vì một chiếc máy bay.

*

Ta sẽ thét lên giữa mênh mông cô độc
để những kẻ ngủ say đừng thức giấc.
Ta sẽ thét lên để tự mình đứng dậy
khỏi tù đày của trí tưởng tượng.

*

Ta là nhà thơ cuối cùng đã quên đi cách ngủ
Bởi cùng một căn bệnh khiến kẻ thù không bao giờ chợp mắt:
Trái đất này quá chật chội
không có chỗ cho con người
lẫn các vị thần.

*

Giữa sắc màu đen - đỏ, lịch sử gom chúng ta lại ở đây.
Nếu không tồn tại tội lỗi thì Thánh kinh đã chẳng quá dày.
Nếu không có ảo vọng thì dấu chân Ngôn sứ để lại trên cát đã hằn sâu,
và đường về với Chúa sẽ ngắn lại
để thiên thu tấu lên bản phúc âm vĩnh hằng.
Còn ta, ta sẽ thì thầm với bóng tối rằng:
Nếu lịch sử nơi này đừng quá thăng trầm
Thì khúc điếu văn ta gửi đến ngọn đồi bạch dương...
sẽ dài biết mấy!

*

Mất mát của chúng ta: mỗi ngày hai đến tám người tử đạo
Mười người trọng thương.
Hai mươi tòa nhà.
Năm mươi cội ô-liu...
được thêm vào sai lầm hệ thống, và chúng sẽ đi vào
Những bài thơ, vở kịch, những tấm toan dang dở.

*

Ta cất giữ đau thương vào những chiếc lọ, giấu chúng khỏi tầm nhìn
của binh lính, vì chúng sẽ ăn mừng cuộc vây hãm…
Ta cất giữ đau thương cho một mùa khác,
một ký ức,
Một điều gì đó sẽ khiến ta bất ngờ giữa con đường.
Nhưng một ngày, nếu cuộc đời bình thường trở lại
ta cũng biết tiếc thương bao điều gần gũi
vốn bị nhấn chìm dưới những dòng tiêu đề lớn lao,
khi ta không cảm nhận được những vết thương bé nhỏ trong tim
đang ồ ạt băng huyết.
Ngày mai khi quê hương liền lặn
chúng ta sẽ cảm nhận được
dư chấn nhói đau.

*

Giữa con đường thắp sáng bởi ngọn đèn kẻ ly hương
Ta thấy một túp lều phần phật bay tứ phía:
ngoan cường chống chọi gió lộng từ phương Nam
và kìa hướng Đông tiếp giáp trời Tây của đạo Sufi,
Ở hướng Tây: cuộc đình chiến cho những người tử nạn
được vinh danh trên đồng xu hòa bình.
Và ở phương Bắc xa xăm
không tồn tại địa lý lẫn tứ hướng
là nơi các vị thần tụ hội.

*

Anh ta nói rằng: Hãy đợi ta bên lề vực thẳm
Và nàng trả lời: Đến đây… hãy đến đây!
Bởi em chính là vực thẳm!

*

Một người phụ nữ nói với đám mây: hãy che chở người tôi yêu
vì máu của anh đã thấm nặng tấm áo này.

*

Con yêu, nếu con không là mưa
hãy hóa thành cây, phì nhiêu xanh tốt
Con yêu, nếu con không là cây
hãy hóa thành hòn đá, thấm đẫm hơi sương
Con yêu, nếu con không là đá
Hãy hóa thành ánh trăng
Rồi quay về trong giấc mơ những người con yêu…
(Một người đàn bà thầm thì trong lễ tang
bên người con trai đã chết)

---

(Hoài Phương dịch)

Ảnh: Di ngôn của các y bác sĩ, thường dân viết ở trên tường bệnh viện Al-Shifa, nơi đã bị binh lính IOF phong tỏa. Ảnh được dịch bởi Free Watermelon NOW

"Giữa vòng vây" (Phần 1) by Phuong Nguyen

"Giữa vòng vây" (Phần 1)
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)

-

Bên phía dốc của ngọn đồi, đối điện là đêm buông
và họng súng của thời gian
Kề bên khu vườn hắt bóng dài đổ nát
Chúng ta làm công việc của tù nhân,
của những kẻ không nghề ngỗng:
vun đắp nên niềm hy vọng.

*

Một đất nước đang chờ đón bình minh.
Ta ngày càng dại khờ
sau dằng dặc ngóng trông giờ phút của chiến thắng:
Ta không biết đến màn đêm vì đạn pháo sáng lòa
bởi kẻ thù của ta không bao giờ ngủ
chúng rọi sáng cho ta
giữa đêm đen hầm tối.

*

Ở đây, khi công việc ngâm lên
bài thơ cuối, ta chẳng còn ai để chờ đợi.

*

Nơi đây không tồn tại cái “tôi”
Adam nhớ ra: thịt đất trong anh từng là cát bụi.

*

Vòng vây sẽ còn tiếp diễn cho đến khi ta dạy cho kẻ thù
những bài thơ của một thời vô luân.

*

Màn trời xám xịt lúc chạng vạng
rực sắc cam khi đêm xuống. Còn trái tim ta
vô cảm như hoa nở bên bờ rào.

*

Giữa vòng vây, cuộc đời hóa thời gian
ta không ngừng nhớ lại cách mọi thứ khởi đầu
để quên đi cách mà chúng sẽ kết thúc…

*

Cuộc đời.
Toàn thể.
Một cuộc đời không khiếm khuyết,
nuôi dưỡng những vì sao
không biết đến hồi tận…
và những đám mây di cư
không nhà.
Chỉ còn lại sự sống
bâng khuâng:
Làm cách nào để hồi sinh tất cả!

*

Anh mở lời bên lưng chừng cái chết:
Chẳng còn gì để mất, không cả một dấu vết:
Tự do ở rất gần. Tương lai đã ở trong tay.
Và sớm thôi tôi sẽ đi xuyên qua đời mình,
Tái sinh không điều gì ràng buộc, mồ côi,
Màu trời sẽ là cái tên của cuộc đời mới…

*

Và ở đây bên con dốc mịt mù, bên thềm cửa
nơi thời gian dần cạn
ta làm những gì một đứa con của Allah nên làm:
quên đi đau đớn.
Bởi nỗi đau
là người đàn bà không còn giăng sợi dây phơi buổi sáng,
vì bà hài lòng với lá cờ sạch sẽ tinh tươm.

*

Không có tiếng vọng âm hưởng Homer ở nơi đây
Huyền thoại gõ cửa đúng lúc ta mưu cầu
Không có tiếng vọng mang âm hưởng Homer….
Và tại đây một thống tướng khai quật đất nước còn say ngủ
dưới tàn tích trước trận chiến thành Troy.

*

Bọn lính canh đo lường khoảng cách giữa người sống
Và người chết
Bằng họng súng của chiến tăng…

*

Trong khi chúng ta ước lượng khoảng cách giữa nhục thể
Và súng cối… bằng giác quan thứ sáu.

*

Này người đang đứng ngoài cửa, hãy vào đây,
Ngồi xuống cùng tôi uống ly cà phê Ả rập này
Rồi khi bình minh tới,
Chúng ta chắc chắn sẽ trở thành
những người đàn ông như anh vậy!

*

Chúng ta là những kẻ dư giả thời gian
ta lắc xí ngầu, lần giở giấy tờ để khuây khỏa
Ta theo dõi tin tức những người thương tật từ hôm qua,
rồi ta xem cung hoàng đạo:
vào năm 2002, ống kính sẽ mỉm cười
Với những ai sinh ra trong vòng phong tỏa.

*

Mỗi khi ngày hôm qua trờ tới, ta trả lời:
Hãy rời đi, bởi buổi hẹn của chúng ta là một ngày khác
hãy trở lại ngày mai.

*

Một nhà thơ châm biếm rằng
Nếu sớm biết kết cục thế này
Thì tôi sẽ chẳng còn gì để làm với từ ngữ!

*

Mỗi một cái chết,
ngay cả khi được dự đoán
đều là cái chết đầu tiên
làm sao để biết
vầng trăng
đang ngủ say dưới đá tảng?

*

Một ý nghĩ gián đoạn:
Ai đó như tôi đã từng bâng khuâng điều gì
trên ngọn đồi kia, ba nghìn năm trước
về khoảnh khắc chóng vánh của hiện tại?
Suy nghĩ này khiến trái tim quặn đau
khi dòng ký ức bỗng nhiên sống lại.

*

Khi những phi cơ biến mất, chim bồ câu trắng
Cất cánh bay, rửa sạch gò má chốn thiên đường
Với đôi cánh tự do huy hoàng, chúng đoạt lấy
thinh không và đùa chơi. Bay cao hơn, cao hơn nữa, hỡi bồ câu trắng
đến một nơi thật xa. Ôi giá như, bầu trời
là thật.
(Một người bay giữa hai quả bom mở lời)

---

(Hoài Phương dịch)

Ảnh: Di thư của một người sống trong vòng phong tỏa ở bệnh viện Al-Shifa

Buồng giam (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Buồng giam”

Mahmoud Darwish (1941 - 2008)

From English translation by Ben Bennai

——

Có thể đấy

Đôi khi, hoàn toàn có thể

Nhất là ngay giây phút này

Tôi có thể nhảy lên lưng ngựa

Giữa chốn tù đày

Rồi chạy thoát.

Và bốn bức tường xà lim

có thể tan biến

để những buồng giam hóa dải đất xa

Nơi không tồn tại đường biên giới.

Mày đã làm gì với bức tường?

Tôi trả chúng về cùng đất đá.

Thế mày đã làm gì với trần nhà?

Tôi biến chúng thành yên ngựa.

Còn những ràng xích sắt?

Tôi biến chúng thành mẩu bút chì.

Rồi gã cai ngục nổi điên

Hắn buộc tôi ngậm miệng

Hắn nói rằng thi ca thật vớ vẩn,

rồi sập cửa buồng giam.

Nhưng rồi buổi sáng

Hắn quay lại

Rồi quát lên:

Nước ở đâu ra?

Tôi mang đến từ dòng chảy sông Nile.

Còn những cái cây

Và thứ âm nhạc này?

Từ nhịp đập trong huyết quản.

Rồi gã cai ngục nổi điên

Hắn buộc tôi ngậm miệng.

Hắn nói rằng bài thơ của tôi thật ngớ ngẩn,

rồi sập cửa buồng giam.

Nhưng rồi đêm đấy hắn trở lại:

Mặt trăng này từ đâu đến?

Có lẽ là đêm dài thành Baghdad.

Còn những giọt rượu?

Từ rặng nho trên đồi Algiers

Thế còn tự do?

Từ hàng xích sắt anh tròng vào người tôi đêm qua.

Tên cai ngục chợt buồn bã

rồi van nài tôi hãy trả lại cho gã

tự do.

---

(Hoài Phương dịch)

Ảnh minh họa: Một nghệ sĩ người Ý đang vẽ tranh bích họa chân dung Ahed Tamini, một bạn nữ người Palestine nổi tiếng sống tại Tây Ngạn, được như một biểu tượng của sự phản kháng. Ahed Tamini nổi lên sau những bức ảnh mà phóng viên chụp lại khi cô chỉ mới mười hai tuổi, một bé gái nhỏ bé gầy còm vung nắm đấm trước mặt những binh lính Israel được trang bị võ khí tới tận răng. Cô cũng từng chất vấn những người lính Israel tại chốt kiểm soát rằng vũ khí họ mang đầy mình có phải để giết trẻ em, phụ nữ, người vô tội. Khi người lính trả lời rằng vũ khí này là để tự vệ, không để giết ai cả, cô đã hỏi rằng: "Vậy nếu tôi bước qua chốt chặn này, anh có bắn tôi không?" sau đó thản nhiên bước qua chốt chặn trong sự ngạc nhiên của những tên lính lẫn gia đình của chính mình. Cô cùng mẹ bị bắt đi tù vì cô đã tát một người lính Israel sau khi em họ cô bị bắn vào đầu bằng đạn cao su. Biểu tình đã nổ ra khắp thế giới đòi trả tự do cho Ahed Tamini, và hai nghệ sĩ người Ý này đã vẽ nên bức bích họa chân dung cô trên một phần bức tường phân biệt chủng tộc ở Bethlehem. Hai người nghệ sĩ này sau đó đã bị bắt và ngay lập tức bị trục xuất khỏi Israel. Ahed Tamini cùng mẹ là một trong những người được phía Israel trả tự do trong cuộc trao đổi con tin gần nhất.

Gửi đến nhà thơ trẻ tuổi (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

"Gửi đến nhà thơ trẻ tuổi"
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Fady Joudah

—-

Đừng tin vào nguyên tắc của chúng ta, hãy quên đi tất cả
Rồi dấn bước với ngôn từ của riêng anh,
như thể anh là người đầu tiên viết xuống vần thơ,
là thi sĩ cuối cùng trên trái đất.

*

Nếu có đọc thơ của chúng ta, xin đừng xem bản thân như đoạn nối
mà hãy chỉnh đốn lại những sai lầm của tiền nhân
trong cuốn sách bao phận người khốn khổ.

*

Đừng bao giờ hỏi rằng: Tôi là ai?
Bởi anh biết rõ mẹ của anh là ai,
Còn người cha? Hãy là người cha của chính mình.

*

Nếu sự thật trắng xóa, hãy viết
bằng giọt mực rỉ ra từ lũ quạ.
Và nếu sự thật đen đặc, hãy viết
cùng ánh sáng thắp lên từ ảo ảnh.

*

Nếu anh muốn giao đấu với chim cắt
thì hãy cùng chúng cất cánh bay.

*


Và nếu một ngày anh rơi vào lưới tình,
đừng đợi đối phương, chính anh
phải khát khao một kết cục.

*

Cuộc đời chẳng sôi động như ta kỳ vọng, nhưng đừng quá bận tâm
nếu anh không muốn tâm hồn chịu nhiều tổn thương.

*

Nếu anh suy tưởng trước đóa hồng quá lâu
Anh sẽ không né tránh dẫu trong lòng cơn bão.

*

Và anh cũng như ta, nhưng vực thẳm của ta đã quá tỏ tường.
Còn đợi chờ anh là những con đường cùng bao bí mật không hồi kết
Chúng cứ trồi sụt, rồi lại trồi sụt.

*

Anh có thể coi cái chết của tuổi trẻ
là khi tài năng, hoặc trí tuệ
trưởng thành. Hẳn rồi, đó là trí tuệ,
là sự khôn ngoan của khuyết ngôn lạnh lùng.

*

Ngàn cánh chim sải cánh trong lòng bàn tay
Cũng không bằng một chú chim đậu trên đỉnh đại thụ.

*

Một bài thơ giữa thời tang thương
Là đóa hoa đẹp bừng nở giữa nghĩa trang.

*

Chẳng dễ gì để theo bước tiền nhân
nên hãy cứ là chính anh, hãy vượt qua cả chính mình
ở bên kia biên giới tiếng vọng.

*

Nhiệt huyết có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu rồi cũng lụi tàn
Nhưng vì con tim, hãy lấp đầy mình với nhiệt tình tha thiết,
hãy bước theo nó trước khi anh đi đến cuối đường.

*

Đừng nói với người yêu rằng: anh là em,
và em là anh, mà ngược lại: chúng ta là hai người khách
trong một đám mây thừa thãi, lưu đày.

*

Hãy dùng hết sức mình để đi sai đường, hãy đi chệch hướng khỏi quy tắc.

*

Đừng đặt hai vì sao trong một câu nói,
hãy đặt những thứ bên lề kề bên điều gì đó hệ trọng,
để say mê tràn dâng được hoàn tất.

*

Đừng tin rằng vào sự chính xác những lời ta hướng dẫn,
Chỉ tin vào dấu vết đoàn hành hương để lại.

*

Phẩm hạnh là viên đạn găm vào trái tim người thi sĩ.
một sự minh triết đầy chết chóc.
Nên hãy mạnh mẽ như một con bò giận dữ
Hãy yếu mềm như đóa hoa hạnh nhân khi yêu
Và đừng là bất cứ điều gì
khi anh tấu lên khúc nhạc cho chính mình trong căn phòng khép kín.

*

Con đường dài rộng như đêm thâu của nhà thơ từ thuở xưa:
bao bình nguyên và núi đồi trải rộng, thung lũng và sông sâu.
Hãy tiến bước như thước đo của giấc mộng: theo chân anh
là nhành hoa huệ, hoặc giá treo cổ.

*

Ta không quá lo lắng về nhiệm vụ của anh.
Mà là những kẻ sẽ nhảy múa
trên mộ con cái của chính hắn,
cùng những chiếc camera ẩn mình
trong chiếc rốn những nhạc công.

*

Anh sẽ không làm ta thất vọng,
nếu anh tách rời bản thân khỏi tha nhân, khỏi chính ta.
Những gì không giống ta luôn đẹp đẽ bội phần.

*

Từ giây phút này, điều duy nhất bảo vệ anh là một tương lai bị bỏ mặc.

*

Đừng nghĩ rằng, khi anh tan vào bi thương
như dòng lệ chảy trên cây nến cháy,
Đừng nghĩ rằng có ai sẽ đó sẽ nhìn thấy anh
rồi những ai sẽ đi theo ánh sáng anh thắp lên bằng trực giác.
Hãy nghĩ về chính mình: đây có phải toàn bộ bản thân anh?

*

Chẳng có bài thơ nào hoàn chỉnh, cánh bướm sẽ hoàn thiện chúng.

*

Không có lời khuyên nào trong tình yêu. Đó là trải nghiệm.
Không có lời khuyên nào về thi ca. Đó là tài năng thiên phú.

*

Và điều quan trọng sau cuối, Salaam.*

——

(Hoài Phương dịch)

* (Arabic: سلام, salām) Là một lời chào phổ thông nhất trong tiếng Ả Rập và cũng là một lời chúc lành, có nghĩa là "hòa bình", "bình yên ở bên anh"

Cây Ô-liu thứ hai (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Cây Ô-liu thứ hai
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Marilyn Hacker

——

Cây ô liu không cười, chẳng khóc. Cây ô liu là người đàn bà e ấp
của sườn đồi. Đôi chân nàng được bóng râm che chở,
Không một chiếc lá rơi, dẫu trước mặt là bão táp cuồng phong.
Nàng đứng như ngồi, và ngồi như đang đứng.
Nàng thân ái như người chị của vĩnh hằng, như cô hàng xóm ngọt ngào của thời gian -
người đã giúp nàng tích trữ những giọt dầu bóng loáng,
giúp nàng quên đi tên của bè lũ xâm lăng, trừ những người La Mã
đã chung sống bên nàng, chỉ vay mượn cành nhánh nàng
để kết thành vòng hoa. Họ không bạc đãi nàng như người tù thất trận
mà như một người bà đáng kính, bởi phẩm cách của nàng
khiến gươm đao lập tức vỡ tan. Và khi đứng trước nàng, trước sắc xanh bạc trầm mặc,
màu sắc bối rối không thốt nổi thành lời, không dám trộm nhìn
những điều tàng ẩn trong dung nhan đó. Cây ô liu không xanh cũng chẳng bạc,
nếu hòa bình cần có một sắc màu, ấy chính là màu ô-liu.
Không ai khen ngợi cây ô-liu rằng, Nàng mới đẹp làm sao!
Mà phải thốt lên: Thật rực rỡ, thật cao thượng! Bởi nàng
dạy những chiến binh buông rơi súng trường,
để được nàng chỉ bảo trọng dịu dàng và yêu thương: Hãy về nhà
rồi dùng dầu của ta để thắp lên ánh sáng! Nhưng,
những người lính này, những kẻ của thời nay
chúng vây hãm nàng bằng xe ủi, bứt rời gốc rễ nàng khỏi huyết quản
của đất mẹ. Chúng đánh đập người bà đáng kính của chúng ta, người khai hoang lập địa,
cành nhánh nàng rơi đầy mặt đất, gốc rễ nàng chổng lên trời.
Nàng không kêu than, không gạt nước mắt. Nhưng một người cháu của nàng
khi chứng kiến buổi hành quyết đã nhặt viên đá
rồi ném vào tên lính, để rồi cả hai đều trở thành người tử đạo.
Khi toán lính hân hoan rời đi,
chúng tôi đặt cậu vào hố sâu – trong cái nôi của người bà yêu dấu.
Chúng tôi biết rằng sớm thôi, cậu sẽ trở thành một cây ô liu -
đầy gai, xanh mướt!

Ảnh: Một bức ảnh vô cùng iconic về hành trình cướp đất của binh lính Israel được chụp bởi phóng viên, nhiếp ảnh gia Nasser Ishtayeh - người đã bị lính Israel bắn hơn 11 lần trong khi tác nghiệp, trong đó có một lần bị nặng và ông đã rơi vào tình trạng hôn mê. Trong bức ảnh, một người đàn bà Palestine đang ôm lấy cây ô-liu của gia đình trong khi lính Israel đang san bằng điền trang của bà.

Cây Ô-liu là một trong những biểu tượng của Palestine. Loài cây này vốn có xuất xứ từ vùng Tiểu Á: Iran, Syria và Palestine, và khoảng 6000 năm trước dần dần lan ra, trải rộng khắp bình nguyên Địa Trung Hải. Cây Ô-liu có tuổi thọ rất cao, trung bình 500 năm và có thể thọ đến 1500 năm tuổi. Palestine từng là một vùng đất màu mỡ nông nghiệp với những rặng ô-liu mênh mông trải dài, và cũng giống với nông dân Ý bây giờ, người dân Palestine có một sự gắn bó sâu sắc với những vườn ô-liu đã gắn bó bên gia đình họ qua nhiều thế kỷ. Trong hành trình "dựng quốc", binh lính Israel đã đốt và đào bật gốc vô số những cây ô-liu hàng trăm, nghìn năm tuổi, để người nông dân không còn kế sinh nhai phải bỏ xứ mà đi. Hình ảnh cây olive vì vậy, thường xuất hiện trong băng rôn, biểu ngữ, thi ca của người Palestine như một biểu tượng phản kháng.

(Hoài Phương dịch)

"Đường về" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Đường về”
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Munir Akasha

——

Ta hướng đến một quê nhà chẳng phải thịt da.
Nơi hàng cây không là xương tủy.
Nơi đá tảng chẳng phải bầy dê trong bài ca núi vọng.
Và hòn sỏi không phải bách hợp bung hoa.
Đường về một quê hương không còn hào quang mặt trời thắp sáng.
Không còn những nữ thần tụng ca.
Một vùng biển dành cho ta, một vùng biển chống lại ta.
Khi chẳng còn nước lẫn lúa mì,
hãy ăn tình yêu trong ta, hãy uống cạn những giọt nước mắt…
Kìa những nhà thơ quấn khăn tang,
và tiếng nói vươn cao nhờ tượng đá.
Một hũ cốt để tro bụi thời gian đừng phủ lên linh hồn.
Những đóa hồng dành cho ta, chống lại ta. Vinh quang cho họ và cho ta.
Đôi mắt ta chỉ thấy những điều vô hình của quê nhà: Sự huyền bí.
Vì đây mới là vinh quang của ta: một ngai vàng ngự trên trùng điệp bàn chân rách nát
đang lê bước trên đường về mái ấm bao người,
trừ ngôi nhà của riêng ta!
Một linh hồn phải tìm ra bản ngã trong linh hồn chính hắn,
bằng không, hãy chết đi ngay chốn này!

——

(Hoài Phương dịch)

Lời hứa của tự do (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Lời hứa tự do
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Munir Akasha
—-
Ta rảo bước giữa phố phường Tây Ngạn
Không chút run sợ, dẫu cho những tên cướp đang uống cạn
dòng máu ta tuôn tràn. Đôi chân ta rách nát,
sưng phồng, tứa máu bởi lưỡi dao cắm sâu vào quê nhà
trên con đường ta lê bước, đoàn người nối tiếp đoàn người.
Chúng ta là làn gió vuốt ve bạo tàn,
là thuốc súng chống chọi trước thù hằn sóng dữ:
Ta hành quân, hành động, ta không bao giờ chợp mắt,
bởi còn đó bao lời thề ta phải gìn giữ :
Một tự do gọi ta đến từ chân trời xa
Dẫn bước chân ta như vì sao bắc đẩu.
Ta chẳng tiếc gì, ta hy sinh tất cả, ta sẽ làm việc vất vả
Cho đến khi ca khúc khải hoàn đến tự do quê nhà!


(Hoài Phương dịch)

"Ta là ai nếu không có lưu đày?" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Ta là ai nếu không có lưu đày?”
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Munīr ʻAkash, Carolyn Forché
Từ tuyển tập thơ “Unfortunately, it was Paradise”, University of California Press, 2003

——
Này người lạ bên kia bờ
như con sông… dòng nước trói buộc ta vào cái tên người.
Chẳng điều gì khiến ta từ xa xăm trở về
bên ốc đảo: không chiến tranh lẫn hòa bình.
Không điều gì khiến ta bước vào bản phúc âm.
Không một điều chi… Chẳng còn gì thắp sáng đôi bờ
khi triều xuống, giữa đôi dòng sông Nile và Euphrate.
Không điều gì lôi ta rời khỏi chiến xa của Pharaoh.
Không điều gì có thể mang ta đi, gieo vào trong ta ý nghĩ:
không hoài niệm lẫn lời hứa.
Ta phải làm gì? Ta biết làm gì nếu không còn lưu vong
như đêm dài đang trừng trừng soi mình trong dòng nước?

 
Dòng nước trói buộc ta vào cái tên người…
Không điều gì bứt rời ta khỏi cánh bướm mộng mị
Không điều gì mang đến thực tại: không bụi mù lẫn lửa dữ.
Ta phải làm gì nếu không còn đóa hồng ở Samarkand?
Ta phải làm gì trên quảng trường nơi hòn đá mặt trăng mài nhẵn nhụi người ca sĩ?


Chúng ta nhẹ bẫng, như những căn nhà
tung bay trong cơn gió thổi từ dải đất xa.
Đôi ta kết bạn với bao tạo vật dị thường luẩn khuất giữa làn mây…
Đôi ta đã được giải phóng khỏi vòng tay vươn tỏa của bản dạng quê nhà.
Ta phải làm gì?
Ta phải làm gì đây nếu không còn lưu đày
khi đêm dài đang soi mình trong dòng nước chảy?


Dòng nước trói buộc ta vào cái tên người…
Chẳng còn gì sót lại trong ta ngoài người
Và ngươi cũng chẳng còn gì khác ngoài chính ta -
rồi người lạ âu yếm đôi chân của tha nhân, cất tiếng hỏi:
Hỡi người lạ! Ta phải làm sao với bao điều còn lại
khi ta chợp mắt giữa hai truyền thuyết thật yên bình?
Điều gì nâng đỡ chúng ta: không mái nhà, không cả lối đi.
Phải chăng còn đường này đã luôn như vậy từ khởi sinh?
Phải chăng giấc mơ của chúng ta đã tìm thấy một tuấn mã Mông Cổ trên đồi
Rồi đổi ta để lấy chú ngựa đó?
Ta phải làm gì?
Ta phải làm gì đây nếu không có lưu đày?

"Địa Cầu dần khép chặt" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

"Địa Cầu dần khép chặt"
Mahmoud Darwish
From English translation by Sinan Antoon

-

Vây quanh ta là Địa Cầu dần khép chặt
ép chúng ta đi qua hành lang cuối
ta cắt rời từng mảnh thịt để lách qua.

Địa Cầu đang bóp nát chúng ta.
Giá như chúng ta là ngọn lúa mì
để vươn mình sống dậy sau cửa tử.
Giá như Địa Cầu là mẹ sinh ra ta
để bà thương xót rủ lòng từ bi.
Giá như chúng ta là ảnh hình của đá
để giấc mơ mang ta bên mình như chiếc gương soi.

Ta đã thấy khuôn mặt những kẻ
sẽ ném con trẻ của chúng ta qua khung cửa chốn tận cùng.
Và trong gương chỉ còn lại những vì sao lơ lửng.

Ta phải chạy đi đâu khi chân chạm đường biên cuối?
Bầy chim bay về đâu khi đã đến cùng trời?
Và hàng cây say ngủ nơi đâu sau khi trút làn hơi cuối?

Chúng ta sẽ viết tên mình lên màn sương đỏ thẫm.
Chúng ta sẽ cắt rời tay bài quốc ca
để thịt da ta ngân lên khúc hát.

Và tại đây trên hành lang cuối
tất cả chúng ta sẽ ngã xuống
Để từ dòng máu ta tuôn trào
một cành ô-liu vươn tỏa.

----

(Hoài Phương dịch)

"Nếu anh thấy mình cô độc..." (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Nếu anh thấy mình cô độc
Mahmoud Darwish
English translation by

——

Nếu anh thấy mình cô độc, hãy nhủ thầm:
Sự lưu vong đã thay đổi dáng hình…
Chẳng phải trước anh, Abu Tamman từng đau đớn
khi ông gặp gỡ chính bản thân mình:
“Ngươi không còn là ngươi
và nhà cũng chẳng còn là nhà…”
Vạn vật chứa đựng lòng ái quốc trong anh:
Đóa hoa dại vươn lên từ góc nhỏ hoang tàn,
Ký tự “H” trong cái tên anh được chú chim sẻ điêu khắc
trên cành cây phỉ gãy ngang
kìa chú ong nhỏ châm chích cánh tay anh giang rộng
như đang với lấy một con ngỗng
phía bên kia bờ rào.
Và với riêng anh:
Tấm gương soi vào nỗi thất vọng
để rồi anh… mà cũng chẳng phải là anh, cất tiếng:
“Gương mặt ta đã thất lạc nơi đâu?”
Anh đào bới giữa bao món đồ thường nhật
hòng tìm lại cảm xúc,
hạnh phúc bật lên tiếng khóc
một thất vọng trào dâng nhoẻn miệng cười thầm…
Anh đã tìm thấy chính anh chưa?
Hãy nói với bản thân rằng: Ta chỉ thấy mình cô độc,
dẫu đã lỡ mất hai tuần trăng
nhưng quê nhà là nơi chốn vĩnh hằng.

——

(Hoài Phương dịch)

Có một ghế trống cho tôi giữa rạp chiếu bóng hoang tàn by Phuong Nguyen



Thơ của Mahmoud Darwish, đặc biệt về giai đoạn sau, không còn miêu tả trực diện những gì xảy ra trước mắt hay miêu tả cảm xúc dữ dội (một ví dụ về giai đoạn đầu là bài thơ Giấy căn cước). Ông rẽ hướng sang một lối viết mới trừu tượng hơn, huyền bí hơn, mang tính kể chuyện, trích dẫn điển tích, và có phần siêu thực để kể lại lịch sử của Palestine. Bài thơ sau đây thuộc về giai đoạn sau.

"Có một ghế trống cho tôi giữa rạp chiếu bóng hoang tàn"
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Có một ghế trống cho tôi
giữa rạp chiếu bóng hoang tàn ở Beirut.
Hồi kết của nó
tôi đã quên, hoặc không còn nhớ rõ.
Không có gì đáng để chờ đợi
bởi vở kịch được dựng nên khá vụng về:
Hỗn loạn… đoàn người tuyệt vọng
đang kể lại trận chiến, những câu chuyện
mà khán giả đã quen thuộc.
Bỗng nhiên các diễn viên xé toạc kịch bản,
rồi hối hả đi tìm gã biên kịch trong hàng ghế khán giả -
những nhân chứng vốn đã ngồi đây trước khi họ xuất hiện.
Tôi thì thầm với tay nghệ sĩ ngồi trước mình:
Đừng vội thủ thế, hãy kiên nhẫn,
trừ khi anh chính là gã biên kịch đó.
- Không phải tôi.
Hắn hỏi ngược lại: Thế ông có phải tay biên kịch đó không?
- Không phải.
Chúng tôi ngồi rúm ró trong sợ hãi. Tôi mở lời:
Can đảm lên, giữ lòng trung lập,
rồi vùng lên trước số phận đang ập đến.
Anh ta trả lời: Màn sau chẳng có ai hy sinh anh dũng
nên tôi sẽ đợi những màn sau nữa.
Biết đâu tôi sẽ đổi vai ở hồi cuối,
tùy xem mớ sắt thép kia làm gì với những người anh em của mình.
Tôi thốt lên: Vậy ra anh chính là hắn!
Anh ta đáp rằng: Cả ông và tôi đều là những tay biên kịch giấu mặt
những nhân chứng ẩn danh.
Tôi đáp: Tôi thì liên quan gì? Tôi chỉ là một khán giả đến đây xem kịch!
Anh ta tiếp lời: Bên lề vực thẳm không ai là khán giả…
không ai có thể trung dung. Anh phải chọn phe
khi vở diễn đã gần kề hồi kết.

Tôi trả lời: Nếu vậy tôi cần biết khởi đầu của mọi sự.
Mọi thứ đã bắt đầu ra sao?



(Hoài Phương dịch)

Ảnh: Rạp chiếu bóng Nasser ở Gaza, năm 1961

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường... by Phuong Nguyen

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường...
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường, ta sẽ không
ngoái nhìn – Ta sẽ nói những gì một người đàn ông
phiêu bạt nói với người đàn bà lãng du: Xin chào, hỡi người lạ
hãy đánh thức cây đàn guitar, hãy trì hoãn ngày mai
chờ con đường trải rộng, và cùng nhau
chúng ta sẽ trốn thoát khỏi câu chuyện này: Nơi nàng chỉ là nàng
nơi ta từng là một ai khác trước khi đôi ta gặp gỡ tại giây phút này.

 

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường
ta sẽ vẫn thuộc về nơi đây, chẳng còn đường lui cho ta
lẫn nàng. Hãy gọi đàn guitar thức dậy để rồi chúng ta
dò dẫm bước đi giữa vùng đất xa lạ, bao hướng đi mời gọi
vãng khách bước vào thử thách của trọng lực. Ta chẳng khá hơn
những bước chân đặt xuống. Nàng là la bàn
mà cũng là vực thẳm. Nếu ta là một ai khác
ta sẽ chôn sâu xúc cảm này ở đáy chiếc vali
cùng những bài thơ trắng muốt, tan chảy
trong suốt trừu tượng.
Chúng phát sáng, cứng cỏi hơn kỷ niệm
mong manh hơn giọt sương, và ta sẽ nói rằng:
Bản ngã của ta là mênh mông trải rộng.

Nếu ta là một ai khác giữa đoạn đường, ta sẽ nói
với cây đàn guitar: hãy dạy cho ta những phím đàn mới,
bởi quê nhà ngày càng xa xôi. Con đường hồi hương
ngày càng đẹp tuyệt vời – đây sẽ lời cho một bài hát mới -
đường càng dài rộng, ý nghĩa càng căng tràn sức sống
Từ một hóa thành hai trên nẻo đường.
Là ta
và một ai khác…

 

Ký ức cho sự lãng quên by Phuong Nguyen

Chân dung Mahmoud Darwish được chụp bởi nhiếp ảnh gia Leonardo Cendamo tại Turin, Italy

KÝ ỨC CHO SỰ LÃNG QUÊN

Beirut, tháng 8, 1982

-

Đừng uống cà phê trong vội vã. Nó là người chị của thời gian, thế nên ta phải hớp từng ngụm, từng ngụm thật chậm rãi. Cà phê là âm thanh của hương vị, là lòng mặc tưởng cuốn ta vào dòng chảy của ký ức và linh hồn. Cà phê là một thói quen mà cùng với thuốc lá mời gọi ta đến bên một thói quen khác nữa - một tờ báo.

Tờ báo đâu rồi? Chỉ mới sáu giờ sáng mà tôi đã lọt thỏm vào địa ngục. Tin tức cần phải được đọc chứ không chỉ nghe thấy, nên một sự kiện chưa trở thành sự kiện trừ khi nó được ghi chép lại. Tôi biết một nghiên cứu sinh ở sở ngoại vụ Israel đã chối đây đẩy “tin đồn” rằng Beirut đang bị vây hãm, anh tuyên bố rằng trừ khi bản tin đó được viết bằng tiếng Hebrew, bằng không thì tấy thảy những gì anh đọc đều không xác thực. Anh nhất mực không tin rằng Beirut đang bị phong tỏa chỉ vì tờ báo Israel ấy chưa đến kịp tay. Nhưng đây không phải là điều điên rồ nhất khiến tôi khốn khổ. Với tôi, tờ nhật báo thực sự là một cơn nghiện. Tờ báo ấy đang ở đâu?

Những chiếc máy bay phản lực đang cuồn cuộn kéo đến. Bầu trời như phát điên. Thật quá sức điên rồ. Hừng đông cảnh báo ta rằng hôm nay là ngày cuối cùng của Sáng Thế. Chúng sẽ dội bom ở đâu? Có nơi nào mà chúng không oanh tạc? Khu vực vòng quanh sân bay có đủ rộng để nuốt chửng những đợt pháo kích này, dữ dội bạo tàn đến mức có thể hạ sát cả biển khơi? Tôi mở đài lên và ùa vào tai là những đoạn quảng cáo vui vẻ: “Thuốc lá Merit – đậm đà và ít nicotine hơn trước!” “Đồng hồ Citizen - vì thì giờ chính xác!” “Hãy đến với Marlboro, hãy đến nơi khoái lạc chờ đợi!” “Nước khoáng Sức Khỏe - Sức khỏe đến từ núi cao!” Nhưng nước ở đâu? Tiếng nói của những nữ phát thanh viên trên đài Monte Carlo bỗng ngày càng e thẹn, như thể họ vừa bước ra khỏi bồn tắm hay từ chốn phòng the kịch tính: “Oanh tạc dữ dội tại Beirut.” Oanh tạc dữ dội tại Beirut! Nhẽ nào bản tin này được phát đi như một tin vắn giữa một ngày bình thường, trong một cuộc chiến bình thường từ một đài phát thanh bình thường không kém? Tôi chuyển sang đài BBC. Những giọng nói lãnh đạm chết người đang hút tẩu phì phèo giữa phiên điều trần với khán thính giả. Giọng nói được phát đi qua làn sóng ngắn, rồi khuếch đại lên thành sóng trung nơi nó được biến chuyển thành âm thanh như những biếm họa gớm guốc: “Phóng viên của chúng tôi cho biết rằng, đối với những bên quan sát thận trọng thì có vẻ những gì đang diễn ra sẽ trở nên rõ ràng hơn dần dần khi phát ngôn viên các bên lên tiếng, trừ khi xảy ra khó khăn trong việc tiếp cận các sự kiện, điều này chỉ ra rằng hai phe trong cuộc chiến đang đặc biệt cố gắng không đề cập đến những phỏng đoán mơ hồ có thể tiết lộ danh tính những phi cơ cũng như phi công chưa xác định, nếu chúng ta muốn biết chính xác hơn thì điều này sẽ khẳng định rằng một số người đang mặc quân phục rất đẹp.” Giọng Ả Rập thanh lịch với những thông tin chuẩn xác làm sao, được kết lại bằng khúc hát của Muhammad Abd al-Wahhab bằng thứ ngôn ngữ Ả Rập bình dân cùng những xúc cảm chuẩn xác nhất: “Đến đây gặp anh, hoặc nói cho anh biết anh có thể gặp em nơi nào / Nói anh biết phải đi về đâu, hoặc từ bỏ em bây giờ.”

Những giọng đều đều i hệt nhau. Như hạt cát diễn tả đại dương. Những lời hùng biện chối tai, vô sỉ, chúng diễn tả cái chết như dự báo thời tiết, thậm chí bản tin về con ngựa hay một trận đua xe còn khá hơn thế. Tôi đang tìm kiếm điều gì? Tôi mở cửa vài bận mà chẳng thấy tờ báo nào cả. Tại sao tôi lại đi tìm một tờ báo trong khi những tòa nhà đang đổ sập từ mọi hướng? Lẽ nào như thế chưa đủ ghi chép hay sao?

Có điều gì đó không đúng. Kẻ đi tìm tờ báo giữa địa ngục này là kẻ đang cố trốn chạy khỏi cái chết cá nhân đến bên một cái chết tập thể. Anh ta đang đi tìm cặp mắt một con người, để cùng sẻ chia sự im lặng, cầu mong một mẩu đối thoại. Anh ta đang tìm cách tham gia vào cái chết này, bởi bằng chứng chỉ được phơi bày với một nhân chứng và những nấm mồ sẽ phủ lên xác người, vì người truyền tin về con ngựa khụy ngã, nhân danh diễn ngôn và câm lặng, để vơi đi buồn chán trong nỗi chờ đợi một cái chết không thể tránh khỏi. Bởi lũ quái thú mình đồng da sắt này đang gầm lên rằng chúng sẽ không buông tha ai trong hòa khí, và sẽ chẳng một ai đếm những xác người.

Tôi lừa dối bản thân rằng: Chẳng cần tìm kiếm bất kì dòng miêu tả nào về quang cảnh xung quanh hay nội tâm bất an đang rò rỉ. Sự thật là tôi sợ hãi mình sẽ rơi vào hoang tàn đổ nát để rồi trở thành miếng mồi cho một tiếng rên không ai nghe thấy. Điều đó thật rất đớn đau. Đau như thể chính mình đang đi qua nỗi đau ấy, như thể mọi thứ đã xảy ra rồi. Và tôi ở ngay đó, dưới tấn gạch vụn. Tôi cảm thấy nỗi đau đang dày xéo những con thú bị nghiền nát vang vọng từ tâm khảm. Một tiếng khóc bật ra trong đau đớn mà chẳng ai nghe thấy. Nỗi đau như một bóng ma, đến từ phía ngược lại - từ những gì có thể xảy ra. Có những người chân trúng đạn vẫn còn cảm thấy cái đau nhói thịt tận vài năm sau khi chân đã bị cắt. Họ vươn tay chạm vào nỗi đau ở nơi chẳng còn cẳng chân nữa. Cơn đau tưởng tượng như một bóng ma ấy có lẽ sẽ bám theo họ đến ngày cuối cuộc đời. Nhưng tôi lại cảm thấy cái đau của một vết thương chưa xảy đến. Đôi chân tôi đã ở đó, gãy nát dưới đống gạch vụn.

Đây là điềm báo cho tôi. Có lẽ tôi sẽ không ra đi trong ánh chớp lòa của pháo kích khi chưa kịp nhận thức điều gì đang xảy ra. Có lẽ một bức tường sẽ chầm chậm đổ xuống thân xác này, khiến tôi đi qua một đau đớn kéo dài đến thiên thu, tôi gào khóc, nhưng không một ai nghe thấy. Có lẽ cẳng chân, cánh tay và cả hộp sọ tôi sẽ bị nghiền nát. Hoặc lồng ngực tôi bị đè chặt để rồi thoi thóp tận vài ngày sau, khi chẳng một ai có đủ thời gian đi tìm thịt da còn sót lại của người xa lạ trong đổ nát. Có lẽ mảnh thủy tinh từ tròng kính vỡ sẽ găm vào đôi mắt khiến tôi mù lòa. Hay một cây cọc sắt sẽ xiên qua mạn sườn, hoặc tôi nằm đó chìm dần vào lãng quên, bên đống thịt thối bị xé nát thành từng mảnh nhỏ vùi trong cát bụi.

Nhưng tại sao tôi lại quan tâm đến nơi chốn lẫn những điều sẽ xảy đến với xác chết của chính mình? Tôi không rõ. Tôi mong muốn một đám tang chỉnh tề cùng một cơ thể toàn vẹn không nát vụn từng mảnh, được đặt ngay ngắn trong một quan tài gỗ, với một lá cờ bốn màu rõ rệt phủ lên trên (dẫu cái tên đến từ một dòng thơ mà âm thanh phát ra không diễn đạt được ý nghĩa của chúng) và bè bạn sẽ khiêng tôi trên vai, bên những người vừa là bạn, mà cũng là kẻ thù.

Và tôi muốn vòng hoa kết từ hoa hồng vàng và đỏ. Tôi không thích màu hồng rẻ tiền, và xin đừng mang đến Tử Linh Lan, vì chúng tỏa mùi cái chết. Tôi muốn có một phát thanh viên không ba hoa lắm mồm, giọng không khàn đục và có thể diễn một vở sầu bi thuyết phục. Giữa những đoạn băng phát lại lời tôi từng nói, tôi muốn anh ta phát biểu vài lời. Tôi muốn một đám tang gọn gàng và bình thản; và tôi muốn nó thật hoành tráng, không phải một dịp tụ tập mà là một sự tiễn đưa đẹp đẽ. May mắn làm sao kẻ đã chết trong ngày đầu tang lễ, khi bao người thăm viếng tranh nhau ca tụng họ! Trong ngày hôm đó, họ là hiệp sĩ, là người yêu, là người trong sạch nhất! Không lời vu khống, không lời nguyền rủa, không cả tỵ hiềm. Và bởi vì chẳng có vợ con, mọi sự sẽ càng tuyệt vời hơn cho tôi hơn nữa. Những bè bạn tôi chẳng cần tốn sức đọc một điếu văn dài thê lương không hồi kết cho đến khi người góa phụ mủi lòng thương người đương phát biểu. Những đứa trẻ cũng giữ được phẩm hạnh của chúng, vì chẳng phải chầu chực trước cửa viện hành chính vận hành bởi một lũ quan liêu theo kiểu bộ lạc. Tuyệt làm sao bởi tôi chỉ một mình, một mình và một mình thôi. Vì lí do đó mà tang lễ của tôi không cần phúng điếu để không ai phải lo lắng về việc có đi có lại, và khi hậu sự xong xuôi, những người đưa tang có thể quay lưng bước về đời sống thường nhật. Tôi muốn một cỗ áo quan tao nhã, và nằm trong đó tôi dõi mắt ra nhìn đoàn người thăm viếng, như những gì biên kịch Tawfiq al-Hakim từng toan tính. Tôi muốn quan sát cách họ đứng, đi lại, thở dài, cách họ biến nước bọt thành những giọt nước mắt. Tôi cũng muốn nghe trộm những lời mỉa mai: “Hắn từng trăng hoa lắm.” “Hắn bảnh bao diêm dúa cực kì.” “Tấm thảm trong nhà hắn dầy lông ngập đến gối.” “Hắn có một lâu đài bên vùng duyên hải Pháp, một biệt thự ở Tây Ban Nha và một tài khoản bí mật tại ngân hàng Zurich. Hắn cũng bí mật sở hữu một phi cơ riêng và năm chiếc siêu xe tại tầng hầm ở Beirut.” “Bọn này không chắc hắn có một du thuyền ở Hy Lạp không, nhưng nhà hắn chất đầy vỏ ốc đủ để xây cả một trại di tản.” “Hắn lừa dối đàn bà.” “Nhà thơ đã chết, mang theo tất cả thi ca. Và còn gì sót lại? Vai trò của ông đã chấm dứt và chúng ta sẽ khép lại huyền thoại về ông. Ông ấy mang theo những bài thơ rồi biến mất. Dù sao thì ông ấy từng có một cái mũi dài, lưỡi ông cũng thế.” Khi trí tưởng tượng được thả rông thì tôi sẽ còn nghe nhiều điều khắc nghiệt hơn vậy nữa. Nhưng tôi sẽ cười trong cỗ áo quan của mình và thử cất tiếng rằng, “Đủ rồi đấy!” Tôi thử quay lại cuộc sống, và tôi sẽ thất bại.

Nhưng không, tôi sẽ không chết tại đây! Dưới đống gạch vụn này. Tôi sẽ giả vờ mình đang tản bộ dưới phố tìm mua một tờ báo. Nỗi sợ là một sự ô nhục giữa cơn sốt chủ nghĩa anh hùng đang bùng nổ - từ những người vô danh trên tiền tuyến đến những linh hồn giản dị đã chọn ở lại Beirut, cống hiến những ngày còn lại đi tìm nguồn nước rót đầy một can hai mươi lít dưới trận mưa bom, họ kéo dài phút giây phản kháng và lòng kiên định trong dòng lịch sử, rồi đối diện trước những mảnh sắt nổ tung giữa trận chiến, họ trả giá bằng chính thịt da của mình. Anh hùng ở ngay đây, ngay chính phần bị chia cắt tại Beirut này giữa trưa hè bỏng lửa. Đó là Tây Beirut. Người ngã xuống tại đây chẳng phải tình cờ. Và những ai còn sống thực là may mắn, vì không một khoảng đất nào đạn pháo chừa ra và chẳng có đến một chỗ đặt chân mà không phát nổ. Nhưng tôi không muốn chết đi dưới đống gạch vụn. Tôi muốn nằm xuống trên con đường trải rộng.

Bỗng nhiên lũ giòi bọ, từng nổi tiếng trong một bộ tiểu thuyết nào đó, bủa vây khắp người tôi. Những con giòi trật tự xếp thành từng hàng theo màu sắc, chủng loại để tiêu hóa một xác chết, chúng lột thịt khỏi xương sạch sẽ chỉ trong vài phút. Một cuộc đột kích, rồi hai, và chẳng còn lại gì ngoài xương trắng. Những con giòi xuất hiện chẳng từ nơi đâu, từ trong lòng đất, từ bên trong chính xác chết ấy. Nhờ có đội quân vô cùng nghiêm túc này mà cái xác ngấu nghiến chính nó chỉ trong vài khoảnh khắc. Chắc chắn hình ảnh này sẽ rút cạn một người đàn ông khỏi lý tưởng anh hùng lẫn xác thịt, tống anh ta vào trong sự trần trụi của số phận điên rồ, một sự điên rồ tuyệt đối, hư vô tuyệt đối; một bức tranh lột trần khúc hát khỏi những lời tụng ca cái chết, lột trần sự trốn chạy để anh ta lao vào chiến đấu. Phải chăng để vượt qua sự thật xấu xí này mà trí tưởng tượng của con người - những thần dân ngụ trong xác chết – đã mở ra một không gian để cứu rỗi linh hồn khỏi hư vô? Phải chăng đây là giải pháp được đề xướng bởi tôn giáo và thi ca? Biết đâu. Biết đâu đấy…

- Mahmoud Darwish

----

(Hoài Phương dịch)

From English translation by Ibrahim Muhawi

Ảnh: Chân dung Mahmoud Darwish được chụp bởi nhiếp ảnh gia Leonardo Cendamo tại Turin, Italy

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua rất khác... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

The Water of the Nile
Frederick Goodall (1822–1904)
Manchester Art Gallery

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua rất khác...
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
From English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Mỗi giờ ở Ai Cập trôi qua thật khác lạ…
mỗi khoảnh khắc là kỷ niệm tái sinh trong cánh chim
dòng sông Nile. Tôi đã ở đó. Con người ở đây
là tạo vật của Thần Mặt Trời. Không ai tự gọi chính mình
bằng tên: “Ta là đứa con của sông Nile, cái tên này với ta
là đủ.” Từ giây phút đầu tiên, anh gọi bản thân
“đứa con của sông Nile” như né tránh gánh nặng của vực thẳm.
Ở đó, người sống kẻ chết hái những đám mây bông gòn
ở Thượng Ai Cập, họ trồng lúa mì
xuôi vùng Châu Thổ. Chắn giữa người sống
và người chết, hai lính gác thay nhau quan sát
hàng cây. Những điều lãng mạn tồn tại trong anh,
anh bước đi bên mép vực linh hồn, lạc trong mê cung thời gian, như thể trước khi chào đời, Mẹ Ai Cập
đã hạ sinh anh trước trong hình hài đóa sen.
Anh có hiểu chính mình chưa? Ai Cập rón rén ngồi
Xuống bên chính nó: “Không có thứ gì giống ta.”
Nó vá tấm áo của thiên thu cũ sờn cùng làn gió thổi tới
từ khắp nơi. Tôi đã ở đó. Nhân loại
viết nên minh triết của Sinh-Diệt. Mọi thứ
thật lãng mạn dưới ánh trăng … chỉ trừ bài thơ
ngoái đầu tìm kiếm một ngày mai, trầm tư
trước sự bất tử nhưng chỉ có những câu từ yếu ớt
bật ra trước dòng sông Nile trải rộng.

——

(Hoài Phương dịch)

"Hãy nghĩ về người khác" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

“Hands”, Christks Bokoros

Hãy nghĩ về người khác
Mahmoud Darish (1941 - 2008)
English translation by Mohammed Shaheen
—-

Hãy nghĩ về người khác khi chuẩn bị bữa sáng
(Đừng quên phân phát thức ăn đến lũ chim câu)
Hãy nghĩ về người khác khi phát động chiến tranh
(Đừng quên những người chỉ mưu cầu hòa bình)
Hãy nghĩ về người khác khi thanh toán hóa đơn nước
(Những người chỉ nguôi ngoai cơn khát nhờ đám mây)
Hãy nghĩ về người khác trên nẻo đường hồi hương
(Đừng quên bao mảnh đời sống trong lều bạt)
Hãy nghĩ đến người khác khi say ngủ và đếm những vì sao
(những người chẳng còn nơi nào để chợp mắt)
Và khi lời ẩn dụ mang đến tự do, hãy nghĩ cho người khác
(Bởi quyền lên tiếng của họ đã bị tước đoạt)
Hãy nghĩ về chính mình khi mặc tưởng trước những mảnh đời xa xăm
(Hãy nói rằng: Giá tôi là ngọn nến giữa màn đêm sâu thẳm )

—-

(Hoài Phương dịch)

Think of Others” by Mahmoud Darwish, from Almond Blossoms and Beyond. Translated from the original Arabic by Mohammed Shaheen. © Interlink Books, 2010.

 

Đêm và nàng chỉ một mình... (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

The Automat, Edward Hopper

Đêm và nàng chỉ một mình
Mahmoud Darwish
From English translation by Omnia Amin and Rick London
——

Đêm đã đến và nàng chỉ một mình,
cô độc, cũng như ta
giữa ngọn nến trước mặt ta và nàng là hai chiếc bàn trống
trong nhà hàng một tối mùa đông.
Không điều gì quấy nhiễu thinh lặng giữa đôi ta
Nàng không biết ta đã trộm nhìn khi nàng bứt cánh hoa hồng
từ trên lồng ngực, và ta không biết nàng đã thấy ta
hớp một nụ hôn từ cốc rượu nồng…
Nàng không đánh rơi vụn bánh mì và ta cũng không vấy nước
trên khăn bàn.
Không điều gì quấy nhiễu bình yên giữa chúng ta
Nàng một mình, cũng như ta kề bên vẻ đẹp của nàng. Tại sao
tổn thương không mang ta đến bên nhau? Ta tự hỏi. Tại sao
không thử nếm giọt rượu của nàng. Nàng không biết ta đã thấy
cách nàng gác đôi chân và ta không biết nàng đã liếc nhìn
khi ta cởi áo khoác. Ta không làm gì khiến nàng phiền mắt
và nàng cũng chẳng làm gì quấy nhiễu ta, chúng ta hòa âm
trong sự quên lãng…
Bữa tối chỉ hai người cô độc mới ngon miệng làm sao.
Giọng nói của đêm xanh thẳm, ta không cô đơn
và nàng cũng vậy bởi ta đang cùng lắng nghe
những âm điệu thủy tinh ấy.
Không điều gì quấy rầy chúng ta đêm nay.
Nàng không nói rằng:
Tình yêu chào đời như một sinh thể sống
rồi dần hóa thành một khái niệm.
Và ta cũng không nói rằng:
Tình yêu chỉ còn là khái niệm…

Nhưng dường như là vậy đấy.

——
(Hoài Phương dịch)



Không lá cờ tung bay trong gió... by Phuong Nguyen

The Standing Bearer, Unfolding the Holy Flag
Jean-Leon Gerome

Không lá cờ tung bay trong gió…
Mahmoud Darwish
From English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Không lá cờ tung bay trong gió
Không tuấn mã trôi dạt khi gió nhẹ thổi qua
Cũng không tiếng trống dồn khi làn sóng vỗ…
Hôm nay chẳng điều gì xảy ra giữa tấn bi kịch.
Bức màn hạ xuống, cả nhà thơ lẫn khán giả
đều đã rời đi – không còn cây bách, không chuyến diễu hành,
không cành ô-liu đón chào thuyền nhân đến,
họ mỏi mệt vì cánh mũi rướm máu và hồi cuối nhẹ như không
như thể họ dịch chuyển từ số phận này
qua số phận khác, một định mệnh được viết tràn dòng chữ,
một người nữ Hy Lạp đang đóng vai
người đàn bà thành Troy, trắng như màu đen,
không vỡ tung cũng chẳng cao thượng, và không ai hỏi rằng:
“Điều gì sẽ xảy đến ngày mai?”
“Cái gì sẽ tới sau đoạn dừng đầy chất Homer này?”
…như thể mọi thứ chỉ là một giấc mơ đẹp
nơi tù binh chiến tranh thanh thản
với sự sòng phẳng của những đêm dài trước mắt,
như thể họ đang nói rằng:
“Chúng ta hàn gắn vết thương cùng muối mặn”
“Chúng ta sống bên cạnh ký ức”
“Chúng ta sẽ thử chết đi một cách bình thường”
“Chúng ta đợi chờ phục sinh, tại đây, trong lãnh địa của hắn
trong một chương sắp đến khi hồi cuối đã qua…”

—-

(Hoài Phương dịch)

"Người đàn ông và con nai nhỏ đùa chơi trong vườn" (Mahmoud Darwish) by Phuong Nguyen

Two Deer beneath Maple Trees
Maruyama Ōkyo 円山応挙 , 1787

Người đàn ông và con nai nhỏ đùa chơi trong vườn…
Mahmoud Darwish
From English translation by Omnia Amin and Rick London

—-

Người đàn ông và con nai nhỏ đùa chơi trong vườn…
Tôi hỏi anh rằng: “Chú nai nhỏ này
đến từ nơi đâu?” Anh trả lời: “Từ Thiên Đường – có lẽ
đó là ngôn sứ John quay về bên tôi trong hình hài nỗi đơn côi.
Có nó kề bên là một phúc lành. Nó mất mẹ rồi
nên giờ đây tôi là người mẹ chăm sóc nó. Tôi cho nó
uống sữa dê với một thìa đầy mật ong thơm ngát
rồi bế nó vòng quanh như đám mây thương yêu
bồng bềnh trôi giữa rừng cây sồi rộng lớn.
Tôi hỏi bạn: “Nó đã quen hơi nhà mới chưa
một nơi đầy ắp tiếng nói và đồ dùng trong bếp?”
Bạn tôi trả lời: “Nó nằm trên giường tôi mỗi lúc ốm đau.
Mỗi lúc như vậy tôi hóa hao gầy. Tôi thấy ảo giác:
Ôi đứa trẻ mồ côi, ta là cha, là mẹ của con,
hãy thức dậy và dạy cho ta biết về sự bình yên.”
Một tháng sau tôi quay lại thăm bạn tôi ở miền quê đó.
Lời nói tuôn ra giữa hàng lệ rơi, Solomon mạnh mẽ là vậy
lần đầu bật khóc, anh nức nở kể rằng:
”Đứa bé hậu duệ loài hươu nai này đã chết trong tay tôi.
Nó không thể hòa nhập với cuộc sống mới.
Nhưng cái chết của nó rất khác anh và tôi.”
Tôi chẳng thể mở lời ủi an người bạn .
Anh không ngâm thơ và chẳng nói lời chia tay như thường ngày.
Anh đến bên nấm mồ chú nai trắng. Anh gom một vốc cát trong tay
rồi khóc ngất rằng: “Hãy dậy đi, con trai ta, để cha có thể
ngủ say trên giường của con - chỉ ở đó ta hiểu được bình yên là gì.”
Anh thiếp đi bên mộ chú nai nhỏ và tôi đánh rơi
một phần quá khứ mình ở nơi này…
Người đàn ông và chú nai nhỏ nằm xuống bên nhau trong vườn…

- gửi đến Soleiman Elnajab

——

(Hoài Phương dịch)

Từ tuyển tập thơ Now, As You Awaken (2006) tuyển dịch bởi Omnia Amin and Rick London gồm các bài thơ được chọn lọc tù tập thơ “Don’t apologize for what you have done” xuất bản bởi El-Rayyes Books, Beirut, 2004

"Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm" by Phuong Nguyen

The First Born
Frederick Goodall
1862  

“Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm”
Mahmoud Darwish
English translation by Omnia Amin and Rick London

——

Đừng tạ lỗi vì điều ngươi đã làm – Điều này ta khẳng định
trong thầm kín. Ta nói với nhân cách kia rằng:
Nơi đây ký ức của ngươi bất chợt hữu hình:
Buổi trưa tẻ nhạt khi chú mèo ngái ngủ,
chiếc mào gà trống,
mùi lá xô thơm,
hương cà phê của mẹ,
tấm chiếu cói cùng chiếc gối êm,
một con ruồi lượn quanh Socrates,
đám mây phủ trên đầu Plato,
tập sách Diwan al-Hamasa*
bức ảnh của cha
kẹp giữa trang sách Mu’jam al-Buldan,**
những dòng Shakespear đã viết ra
ba người anh trai, ba cô em gái,
vài đứa bạn thuở nhỏ -
và một đám đông bao đồng:
“Là hắn phải không?”
Những nhân chứng lắc đầu:
“Có lẽ”
Tôi hỏi:
“Vậy hắn là ai?”
Không ai đáp lời.
Ta thầm thì hỏi nhân cách khác:
“Phải chăng đó là ngươi… là chính ta?
Hắn lảng tránh.
Những nhân chứng hỏi mẹ ta để chắc rằng
hắn chính là ta
và bà đã sẵn sàng cất lên tiếng hát
bài ca của chỉ riêng bà:
“Dẫu ta là đấng sinh thành
nhưng ngọn gió đã nuôi nấng con trai ta.”
Rồi ta nói với một ta khác rằng:
“Trừ mẹ ngươi ra, đừng tạ lỗi trước bất kì ai.”

—-

(Hoài Phương dịch)

*Diwan al-Hamasa: Tuyển tập cổ thi gồm mười cuốn được tổng hợp vào thế kỷ thứ 9 bởi Abu Tammam, một nhà thơ người Ả Rập sinh ra tại một làng nhỏ gần Damascus, Syria hiện đại. Bên cạnh Asma'iyyat, Mufaddaliyat, Jamharat Ash'ar al-Arab và Mu'allaqa (Tên các tuyển tập cổ thi khác, đôi khi được nhắc đến trong các bài thơ của thi sĩ Palestine), al-Hamasa được xem như một trong những kho tàng cổ thi quan trọng nhất trong nền văn học Ả Rập.

**Mu’jam al-Buldan: Bách khoa toàn thư các vùng đất và đế chế được viết ra bởi Yaqut Al- Hamawi, một nhà địa lý Ả Rập gốc Hy Lạp sinh ra tại Byzantium (còn được gọi là Constantinople, Istanbul hiện đại) Bộ bách khoa toàn thư này được ông biên soạn vào thế kỷ thứ 12, tổng hợp hầu hết những kiến thức thời trung cổ về địa lý khắp thế giới và nội dung sách trải dài từ khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử, nhân loại học, khoa học tự nhiên, kiến thức địa lý cũng như tọa độ các vùng đất, kinh thành, làng bản, kèm theo danh sách về những thành tựu, tượng đài quan trọng, người cầm quyền cũng như số lượng của cải và dân số vùng đất đó. Đây là một tài liệu rất quan trọng với các học giả người Ả rập và vẫn còn giá trị tham khảo cho đến ngày nay.