"Ta sáng suốt như một kẻ chịu tội"
Mahmoud Darwish (1941 - 2008)
English translation by Omnia Amin and Rick London
——
Ta sáng suốt như người thụ án tử hình,
Vì vô sản nên không điều gì sở hữu được ta
di thư ta viết nên rỉ ra từ dòng máu:
“Hỡi thần dân trong khúc hát ta: hãy tin vào dòng nước”
Ta mơ thấy mình bị đâm xuyên, được trao mũ miện bởi những ngày mai…
Ta mơ thấy trái tim vùng đất này thật vĩ đại
vượt xa khỏi bản đồ,
trong sạch hơn gương soi
lẫn chiếc giá đợi ta đến treo cổ.
Ở vầng trời cao ta lạc lối giữa mây trắng dập dìu
như thể ta là chú chim đầu rìu
và ngọn gió đã hóa thân thành đôi cánh.
Rồi hừng đông đến, tiếng quát từ lính gác đêm
dựng ta dậy từ cõi mộng cùng những ngôn từ:
Ngươi sẽ sống thêm một lần chết khác,
nên hãy xem lại di thư,
giờ tử của ngươi một lần nữa trì hoãn.
Ta hỏi: Tới khi nào?
Hắn trả lời: Đến khi ngươi đã chết thêm vài khắc.
Ta nói rằng: Ta vô sản nên không điều gì trói buộc ta
và chúc thư của ta rỉ ra từ dòng máu:
“Ôi những thần dân trong khúc hát ta: hãy tin vào dòng nước.”
—-
(Hoài Phương dịch)
Tranh: "The death of Socrates", Jacques-Louis David, 1787
Từ tuyển tập thơ "Now, As You Awaken" (2006) tuyển dịch bởi Omnia Amin and Rick London gồm các bài thơ của Mahmoud Darwish được chọn lọc từ tập thơ “Don’t apologize for what you have done” xuất bản bởi El-Rayyes Books, Beirut, 2004
translation
Trận oanh tạc chấm dứt (Najwan Darwish) /
Trận oanh tạc chấm dứt
Najwan Darwish
English translation by Kareem James Abu-Zeid
—-
Ngày mai sẽ chẳng còn ai biết đến ngươi.
Trận oanh tạc đã qua
chỉ để bắt đầu một lần nữa trong người.
Những tòa nhà đổ sụp, chân trời rực cháy
đưa mồi cho bão lửa càn quét thâm tâm ngươi,
ngọn lửa dữ nuốt trọn đá tảng.
Lũ sát nhân đang say ngủ,
nhưng ngươi thì không -
mãi mãi tỉnh thức,
thức cho đến khi tất thảy vỡ vụn, những tảng đá khổng lồ
từng là nước mắt những thánh thần ẩn dật.
Sự thứ tha đã kết thúc,
Lòng khoan dung tuôn tràn khỏi thời gian.
Không ai biết đến ngươi bây giờ,
và sẽ chẳng một ai biết đến ngươi ngày mai.
Như những cái cây, ngươi
đã bị gieo xuống vùng đất nơi đạn pháo san bằng.
——
(Hoài Phương dịch)
Người tử đạo cho Intifada (Fadwa Tuqan) /
Người tử đạo cho Intifada
Fadwa Tuqan
——
Họ vẽ nên bản đồ dẫn đường cho sự sống
Rồi lát lối đi ấy cùng đá quý và trái tim trẻ tuổi ấm nồng
họ nâng trái tim lên như hòn đá trong lòng bàn tay
như than hồng, rực lửa
rồi ném chúng vào quỷ dữ bên đường
đã là lúc để phô bày sức mạnh cùng lòng can đảm,
tiếng nói của họ chạm đến muôn nơi
vang vọng khắp chốn
rồi cùng với sức mạnh và lòng can đảm ấy
họ chết đứng
rực lửa trên đường
bừng sáng như những vì sao
đôi môi họ quyện lấy làn môi của sự sống.
***
Tử thần đã đến và vung lưỡi hái
họ vẫn vững chân đối diện cái chết
ngay thẳng hơn rừng cọ
hùng dũng hơn cánh đồng lúa trổ
sáng tỏ hơn vầng dương chiếu rọi
đẹp đẽ hơn hàng cây tưới tắm dưới cơn mưa ôm ấp hừng đông
họ vươn lên, nhảy vọt, lao đến chiến trường
nơi họ lan ra như những quả cầu lửa
họ bốc cháy, sáng rực, trao cho ta ánh sáng
giữa chặng đường - rồi biến mất như vệt nắng dần tan.
***
Ôi những giấc mơ của họ đang hiện ra ở nơi xa
ôm ấp tương lai hạnh phúc!
Và ngươi sẽ mang họ quay lại
cùng những ngày mai tuyệt vời.
Hình hài của tái sinh sẽ vươn lên từ vực sâu của đêm và cái chết
trên gương mặt hắn hiển linh bao tin tốt lành
và giữa đôi mày rộng, một vì sao rực sáng.
***
Đất Mẹ sẽ mớm cho anh dòng sữa ngọt suốt cuộc đời
để ngay đến sự cô đọng của cái ác
và quỷ dữ nơi đất liền, thống trị biển khơi
cũng không thể bứt rời anh khỏi bầu ngực Người
và anh sẽ chẳng bao giờ rời xa dòng sữa ấy
dẫu bè lũ cướp ngôi xuống tay bạo tàn
anh sẽ chẳng bao giờ rời xa dòng sữa ấy
và rồi giữa màn đêm bội bạc, tử thần sẽ vẽ nên
đầu vú bầu ngực căng tràn bằng giọt táo đắng.
***
Hãy nhìn họ từ đằng xa!
Họ đang trỗi dậy cao hơn, cao hơn nữa
khi cả thế giới căng mắt dõi theo!
Họ đang vươn lên những nấc thang vời vợi
khi dòng máu trào dâng!
Trái tim họ không thể nào bị trói buộc bởi tử thần bội bạc
khi sự tái sinh và hừng đông còn đó
trong tầm mắt, dẫn họ bước tiếp con đường của hy sinh!
Hãy nhìn họ đàn chim ưng giang đôi cánh giữa Intifada
họ bước đến vĩnh hằng, vì dải đất và quê hương tôn kính!
Khi hắn chạm đến tận cùng cô độc (Ghassan Zaqtan) /
Khi hắn chạm đến tận cùng cô độc
Ghassan Zaqtan
English translation by Fady Joudah
—-
Hắn sập cửa rồi tắt đèn
trừ hành lang nơi dẫn đến hàng rào
nơi hắn trộm nhìn giàn hoa giấy
bên những cành táo ngọt hắn gieo xuống mùa đông qua.
Chỉ một ngọn nến leo lét trong phòng,
vậy thôi là đủ.
Cuộn khói dâng lên bên ánh lửa yếu ớt
khiến hắn nghĩ đến một nơi có những gương mặt
cùng thân thể, tên gọi và nơi chốn
đang ngồi phía bên kia làn khói mỏng.
Giữa hành lang vô tận tiếng thở dài lăn lộn khi cố vươn đến hắn
Tiếng nói và những căn phòng quá xa xôi, như thể bị chôn vùi.
Nhưng hắn còn ở đó giang rộng đôi tay
cùng làn khói dẫn đường đưa họ băng qua bóng tối
ánh sáng là dấu hiệu, là hành lang yêu thương
bảo vệ cho mọi thứ đừng rơi, đừng lạc lối.
Để ký ức của hắn đừng kết thúc cũng không mục rữa
Chỉ vừa đủ để đợi chờ hắn ở một cõi xa xôi
cho đến khi hắn chạm đến tận cùng của cô độc
Ghassan Zaqtan, November 2, 2021
—Zakariya/Beit Jala/Ramallah
Ngựa đen (Ghassan Zaqtan) /
Ngựa đen
Ghassan Zaqtan
English translation by Fady Joudah
—
Kẻ thù đã chết không ngừng nghĩ về ta trong giấc ngủ vĩnh hằng
Những bóng ma lướt đi trên bậc thang, ngồi trong góc tối
Những bóng ma ta nhặt bên vệ đường, như chuỗi hạt
quàng trên cổ một người kết từ tội lỗi.
Tội lỗi ngập tràn cuống họng, và tại đây ta nuôi sống những bóng ma, cho họ ăn
rồi họ bơi vòng quanh như đàn ngựa đen trong giấc mộng.
Với sức sống từ người tử nạn, điệu Blue cuối trỗi dậy
khi ta nghĩ về sự đố kỵ,
cánh cửa rạch hở và hơi thở tràn qua kẽ nứt, dòng sông
thở phập phồng, như một kẻ say
và quá khứ của người đàn bà chợt thức dậy giữa công viên…
Và khi ta chìm vào giấc ngủ
Ta thấy một chú ngựa đang gặm cỏ
bất cứ khi nào ta chìm vào giấc ngủ
một chú ngựa bước đến gặm nhấm giấc mơ ta
Trên chiếc bàn ở Ramallah là bao lá thư dang dở, bức ảnh người bạn cũ
Bản chép tay bài thơ của một chàng trai trẻ từ Gaza, đồng hồ cát,
và khởi đầu của bài thơ đang đập cánh trong đầu.
Tôi muốn nhớ về bạn như bài hát ta từng nghe hồi tiểu học
mà tôi nhớ tường tận, chưa từng phạm lỗi
với đôi môi lạc nhịp và mái đầu nghiêng
cùng bàn chân nhỏ hăng hái giậm sàn đất
và trên chiếc bàn là đôi tay vỗ liên hồi.
Tất cả đã chết vì chiến tranh, bằng hữu, bạn học…
những bàn chân nhỏ ấy vẫn còn đây, cùng đôi tay hăng hái, dẫm trên
sàn lớp học, bàn ăn, bên vệ đường
trên vai lưng những người dạo bước
và bất cứ nơi đâu tôi đi đến
tôi vẫn nghe
tôi vẫn nhìn thấy.
Mẹ tôi (Mahmoud Darwish) /
Mẹ tôi
Mahmoud Darwish
English translation by A.Z. Forman.
—-
Con nhớ làm sao bánh mì thơm
và những ly cà phê của mẹ
Cách mẹ khẽ chạm tay
Và ký ức tuổi thơ sống dậy
từng ngày, từng ngày
Con phải nâng niu cuộc đời này
Bởi nếu con chết đi
Con sẽ hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt người.
Và nếu một ngày con trở lại
Hãy xem con như tấm mạng người phủ trước làn mi
Trên nắm xương con hãy rải tràn cỏ xanh
nơi bước chân mẹ đã ban phước lành
như vùng đất thánh.
Và hãy bện chúng ta lại thật chặt,
Bằng một lọn tóc của mẹ
Và như thế con biết đâu sẽ trở thành bất tử
Linh hồn con vươn lên như thánh thần
Nếu con có thể chạm đến tận cùng đáy sâu trái tim người.
Nếu một ngày con trở lại, xin mẹ
Hãy dùng con như củi khô, mồi cho bếp lửa
Hãy xem con như sợi dây phơi căng trên mái nhà người
Bởi nếu không được mẹ ban phước hằng ngày
Con yếu đuối làm sao, chẳng còn đứng vững.
Con đã già rồi…
Hãy mang cho con bản đồ sao thời thơ ấu
Để con cùng bầy chim thiên di
tìm thấy con đường hồi hương
về tổ ấm nơi mẹ vẫn đợi chờ.
—-
(Hoài Phương dịch)
Mahmoud Darwish sáng tác bài thơ này khi còn trẻ, khi ông đang bị giam trong nhà ngục Israel, và ông bày tỏ lòng thương nhớ và sự hối lỗi gửi đến mẹ qua bài thơ này, được viết như một lá thư gửi đến bà. Ông kể rằng:
”Khi tôi còn ở trong ngục, mẹ đã đến thăm, bà mang theo trái cây và cà phê, và tôi không thể nào quên giây phút cai ngục tịch thu bình cà phê rồi đổ chúng xuống trước mặt bà… tôi không thể nào quên những giọt nước mắt đó. Tôi đã viết nên bài thơ này gửi đến mẹ trong buồng giam, trên vỏ một hộp thuốc lá rỗng. Tôi từng nghĩ rằng đây chỉ là lời xin lỗi của một đứa trẻ gửi đến mẹ mà thôi, chẳng nghĩ rằng rồi một ngày bài thơ này sẽ thành bài hát được xướng lên bởi hàng triệu đứa trẻ trên thế giới.”
Bài thơ “Mẹ tôi” đã được Marcel Khalife, một nhạc sĩ người Lebanon phổ nhạc, mời các bạn nghe ca khúc này tại đây”
https://www.youtube.com/watch?v=gX2x7aW2EbI
Câu chuyện (Kamal Nasser) /
Câu chuyện
Kamal Nasser (1924 - 1973)
English translation by Micheal R. Burch
—-
Để tôi kể anh nghe câu chuyện này…
câu chuyện từng sống trong giấc mộng dân tôi,
hoài thai từ thế giới của lều bạt,
cảm hứng là đói khát, được tô điểm thêm bởi bao đêm kinh hoàng
Câu chuyện đất nước tôi, một nhúm dân lưu lạc.
Nơi nửa cân bột mì hai mươi mạng chia nhau
kèm theo lời hứa hẹn… và vài món quà nhỏ.
Đó là câu chuyện của những người khốn khổ
nối nhau thành hàng đằng đẵng mười năm
trong cơn đói,
giữa đớn đau và giọt nước mắt rơi,
giữa nhọc nhằn và khao khát.
Đó là câu chuyện về những người lưu lạc,
bị ném vào mê lộ của tháng năm,
Thế nhưng họ vẫn ngoan cường trụ lại
đồng lòng hợp nhất dẫu có bị lột trần
khi lê bước chân từ ánh sáng về túp lều nhỏ:
cuộc cách mạng ngày trở lại
vào thế giới của đêm thâu.
—-
(Hoài Phương dịch)
Kamal Nasser (Kamal Butros Nasser) Là một chính trị gia Palestine và cũng là một nhà thơ, nhà văn. Ông sinh ra tại Gaza vào năm 1924 và lớn lên ở Birzeit trong một gia đình Thiên Chúa giáo. Ông từng theo học tại Đại học Birzeit rồi sau đó theo đuổi Chính trị học tại American University tại Beirut. Ông trở thành giáo viên sau đó trong khi theo đuổi học luật tại Jerusalem. Vào năm 1952, ông gia nhập Ba’ath (Arab society Ba’th party) và chịu trách nhiệm sản xuất ở tòa báo Al-Ba’ath tại Ramallah và tờ báo Jil al-Jadid, một tòa báo quân đội. Bị trục xuất khỏi Tây Ngạn bởi Israel vào năm 1967, Nasser trở thành chủ biên của tuần báo Falastin Al Thawra trực thuộc PLO. Ông cũng là phát ngôn viên chính thức của PLO và từng nắm giữ chứng vụ quan trọng trong ban truyền thông. Ông qua đời vào đêm 9/4/1973, bị ám sát bởi lực lượng tinh nhuệ Israel trong một cuộc đột kích vào Lebanon.
Rita và khẩu súng trường (Mahmoud Darwish) /
“Rita và khẩu súng trường”
Mahmoud Darwish
English translation by Lamdi Hasan
—-
Giữa Rita và đôi mắt của ta
là một khẩu súng trường
Những ai từng biết Rita
Sẽ quỳ xuống rồi tấu nhạc
tụng ca thánh thần trong đôi mắt đẫm màu mật ấy.
Và ta đã hôn Rita
khi nàng còn rất trẻ
Ta nhớ cách nàng bước đến
cách bím tóc nàng quấn quít bàn tay ta
Và ta nhớ Rita
như chim sẻ nhớ thương suối nguồn.
Ah, Rita
Giữa chúng ta là triệu cánh chim, hình ảnh
mà phần nhiều là điểm hẹn đôi ta từng gặp gỡ
rền vang tiếng súng trường.
Cái tên Rita là yến tiệc nơi vòm miệng
Và thân thể nàng là hôn lễ trong huyết quản ta.
Ta lạc mất mình trong Rita suốt hai năm
Nàng say ngủ trong vòng tay ta thời gian đó
Chúng ta trao cho nhau bao thề nguyện
Bên những chiếc ly hoàn mỹ
Để giọt rượu thiêu cháy làn môi
Và rồi cùng nhau đôi ta lần nữa tái sinh.
Ôi, Rita!
Có điều gì khiến ta rời mắt khỏi nàng trước khi họng súng đến
Chỉ đôi giấc ngủ ngày và làn mây sóng sánh mật ong
Đã từng có một thời…
Ôi, thinh lặng của đêm rơi
Khi bình minh tới ánh trăng của ta thiên di về cõi khác
hướng về vùng trời có đôi mắt màu mật ong
Và rồi thành phố càn quét những nhạc công
Cùng với Rita.
Giữa đôi mắt ta và Rita -
Là một khẩu súng trường.
——
Translator note: Mahmoud Darwish đã từng yêu một cô gái người Israel vào những năm 1960 khi ông còn trẻ, và đây là bài thơ ông viết về tình yêu nồng cháy giữa ông và cô gái đó. Họ đứng ở hai bên bờ chiến tuyến với những khác biệt không thể dung hòa giữa Israel và Palestine, một tình yêu cam go, “dị giáo” bị số đông phản đối như câu chuyện giữa Romeo và Juliet. Rita là biệt hiệu mà ông gọi người yêu của mình - Tamar Ben-Ami, và câu chuyện giữa họ đã được ghi lại trong bộ phim tài liệu “Viết lại, ta là một người Ả Rập” (2014). Ben-Ami là con gái của một gia đình Do Thái giàu có, Mahmoud Darwish khi đó là sinh viên tại trường đại học Haifa, và họ gặp nhau tại một cuộc diễu hành của Đảng cộng sản Israel vào năm 1962. Tại thị trấn Shfaram gần Haifa, ông thường đọc thơ và Ben-Ami - một vũ công và ca sĩ - trình diễn âm nhạc. Ông khi đó 22 tuổi và Ben-Ami 16 tuổi rưỡi. Ben-Ami nói rằng cô không muốn công khai mối quan hệ của họ bởi vì thể chế cộng sản, và vì ông là một người Arab, cô là một người Do Thái.
Mahmoud Darwish kể lại, ông từng bảo Ben-Ami: Em là thanh gươm thắng trận. Và cô trả lời: Và anh là lưỡi dao đã đào thoát.
Tuy nhiên tình yêu của họ không thể vượt qua lý tưởng. Mahmoud Darwish ngày càng nổi tiếng trong vai trò chủ bút và thông dịch cho Tòa báo Cộng Sản, cùng những bài thơ phản chiến và đả kích Israel, tiêu biểu là bài thơ “Thẻ căn cước”(Identity card, 1964) đã khiến ông đi tù. Ben-Ami vẫn còn trẻ và không thể từ bỏ gia đình, cuộc đời mình tại Israel. Họ chia tay. Vào năm 1967, sau cuộc chiến 6 ngày, Ben-Ami gia nhập quân đội Israel. Khi biết tin này Mahmoud Darwish đã gửi thư cho cô rằng:
”Tamari, tuần này anh nghĩ về em rất nhiều. Những suy tư này khiến anh cảm thấy thật tệ hại. Anh chỉ còn thấy trong em một tên tội phạm. Anh buộc lòng phải quên đi những khía cạnh đẹp đẽ ngọt ngào của em. Chúng còn tồn tại không? Anh mong là có.”
Sau trận chiến 1967, Darwish bị giam lỏng tại Haifa, và vào năm 1971, ông rời khỏi PAlestine đến Cairo, sau đó là Beirut, Moscow và Paris, cuộc đời lưu vong của ông bắt đầu và không bao giờ quay lại quê hương. Ông nhắc lại mối tình của mình với Ben-Ami sau đó trong tuyển tập “Hồi ký những tiếc thương tầm thường”(Journal of an Ordinary Grief)
“Ta nghĩ về em: Em đang làm gì? Có lẽ em đang ở Nablus, hay một thành phố khác, trên tay là một khẩu súng trường trong đội ngũ quân xâm lược, có lẽ ngay chính giây phút này em đang ra lệnh buộc vài người đàn ông giơ tay hay quỳ mọp dưới đất. Có lẽ em đang thẩm vấn và tra tấn một bé gái Ả Rập bằng tuổi em, cũng xinh xắn như em đã từng.”
Ben-Ami sau khi rời khỏi IDF (Quân đội Israel), bà đã rời Israel đến Đức làm việc như một biên đạo múa, nơi bà sinh sống đến tận bây giờ.
Bà chia sẻ với Mara’ana - đạo diễn của thước phim tài liệu “Viết lại, Ta là một người Ả Rập” - rằng: “Tôi có những người bạn Israel và tôi muốn ở lại nơi đó. Tôi nghĩ rằng mình chọn nơi này vì khi đó danh tính của tôi, khái niệm “tôi là ai” vẫn còn quá yếu ớt, tôi không dám thể hiện bản thân mình vì tôi còn trẻ, tôi bận đi học và chẳng có thời gian để suy tư, có lẽ…”
”Sự chia ly này là lỗi lầm của tôi. Tôi không đủ mạnh mẽ để vượt qua những khó khăn trong mối quan hệ này.”
Trên mạng có nhiều bài viết lan truyền về việc Mahmoud Darwish từng hẹn hò một tình báo viên Mossad trong quân đội Israel, nhưng bài phỏng vấn này đã xóa tan nghi vấn đó. Họ đã từng yêu nhau khi họ còn trẻ, một tình yêu vượt qua rào cản tôn giáo - ý thức hệ, dẫu nó đã chết yểu, nhưng tình yêu của họ còn đó trong thi ca.
Mong rằng một ngày nào đó, người Do Thái và Ả Rập sẽ có thể ôm lấy nhau trong yêu thương, như nhà Montague và Capulet hòa giải sau cái chết hai người con của họ, như những gì Mahmoud Darwish từng mong mỏi.
Vào một ngày như hôm nay (Mahmoud Darwish) /
Vào một ngày như hôm nay
Mahmoud Darwish
English translation by Fady Joudah
—-
Vào một ngày như hôm nay, tại một góc khuất
nơi nhà nguyện, trên mình là phục sức nữ tính,
giữa một năm nhuận, giữa cuộc hạnh ngộ giữa sắc xanh lục
vĩnh hằng, và màu đen kolh thăm thẳm.
Khi hình hài hòa quyện cùng vật chất,
giữa những giác quan và đức khổ hạnh Sufi,
Bên dưới dàn nho vươn tỏa trên giàn rào,
Và những cái bóng đến đều đặn như một chu kỳ,
Khiến dáng hình của ý nghĩa đớn đau, và ngay tại
nơi chốn xúc động khôn cùng này/
Ta sẽ gặp khởi đầu và điểm tận của chính mình
Rồi cất lời: Khốn kiếp! Hãy mang ta đi nhưng nhớ chừa lại
Trái tim sự thật hẵng còn tươi cho đứa con lũ chó rừng
Và ta sẽ nói rằng: Ta chẳng phải một công dân
cũng không là kẻ chạy nạn
Ta chỉ muốn một điều thôi và không gì khác
Một điều duy nhất:
Là cái chết đơn giản và lặng im
Trong một ngày như hôm nay,
giữa góc khuất của bụi hoa diên vỹ
Biết đâu chúng sẽ đền bù cho ta ít nhiều
sau một đời ta đong đếm
bằng phút giây
bằng ly biệt
Ta muốn chết đi giữa một khu vườn
Chỉ vậy và không gì khác!
(Hoài Phương dịch)
Bàn tay của chiến tranh (Hosam Maarouf) /
Bàn tay của chiến tranh
Hosam Maarouf
English translation by Fady Joudah
——
Ta nắm lấy bàn tay của chiến tranh
chẳng phải vì hắn là bạn đồng hành
mà bởi vì cái chết
đến chậm, nên ta đành lừa phỉnh hắn.
Ta nắm lấy bàn tay của chiến tranh
tin rằng đây là lần cuối cùng
hứng chịu tai ương hắn gieo xuống
bởi con đường ta đi là bức tường vô dụng.
và quê hương vẫn mải miết đi tìm
một bức ảnh
của nỗi đau chung.
——
Hosam Maarouf là một nhà thơ, tiểu thuyết gia đến từ Gaza. Tuyển tập thơ “Death smell like grass” của anh đã nhận được giải thưởng văn học từ Bảo tàng Mahmoud Darwish vào năm 2015.
Một vĩnh hằng nhỏ bé (Mourid Barghouti) /
Một vĩnh hằng nhỏ bé
Mourid Barghouti
English translation by Zeina Hashem Bec
——
Đơn độc, vút bay, ban công là những tầng mây
trong vòng tay êm ái của bầu trời
Bãi biển trải dài trước mắt, một thiên đường
nơi màu xanh lục (thầm thì, gầm lên vang vọng)
đủ nói lên tất cả.
Xanh lục nơi viền lá lấp lánh màu quả hồ trăn
Xanh lục bú mớm, trườn bò
cho đến khi trưởng thành như quả mơ sáng tỏ
rồi dần ngả màu rỉ sét xa hoa
như tấm da một quả lựu chín rũ.
Màu lục xám đào thoát khỏi xanh lam
lấp lánh như ngọc trai ngả sang ánh đồng
trong suốt tựa quả nho bé nhỏ và hơi giống
một thứ tôi không thể gọi tên.
Cánh rừng trải rộng từ đồi xa dần chạm đến
sự tĩnh lặng nơi lòng hồ trải rộng
và mùi của hoa thơm nhẹ rơi
từ chân núi, hướng về phía tôi, cao xa vời vợi
như cánh chim mãi trói buộc bởi vòm trời.
Và dáng hình núi xanh thân thương như
tổ tiên ta, những người tỏ tường nơi họ thuộc về,
dãy núi là những kỷ nguyên,
và nếu ngươi nhìn thật kỹ, chúng là cơ thể của thời gian.
Tô điểm bởi những con thuyền, mặt hồ là
chiếc váy xinh của một cô cháu nhỏ. Gật gù ngái ngủ cô lắng nghe
ngọn núi thầm thì những mẩu chuyện thần kì
khi cơn gió thẹn thùng thổi qua
(những bản làng lác đác bên vòng hồ)
và có phần hối lỗi vì lỡ khiến tàn lá lao xao.
Và rồi đôi cánh thình lình trổ ra
tôi nhấc mình bay lên mênh mông trải rộng
giờ là cánh chim tôi bỗng chốc nhận ra
thế nào là góc nhìn toàn cảnh.
Và tôi cất lời thật là một buổi sáng yên lành
cho những ai dừng lại nhìn ngắm,
cảnh tượng nơi vạn vật nương tựa vào nhau.
Tôi sẽ cần đến một năm
để học tên của bao đại thụ,
của tán cây, những đóa hoa, tên các loài chim,
một năm để học được tên tôi giữa nơi này.
Và tại đây thi ca là hoàn hảo,
nên viết sao cũng được, hỡi người lạ
bởi những kí tự khao khát anh ở chốn này.
Tôi ngẫm về xác thân rồi chợt thấy hoang mang:
bên dưới hàng cúc trên làn áo mỏng
là một hiện thực
như đầu gối đập vào nền cẩm thạch,
rồi ập đến một quá khứ hãi hùng
như loài sói lang nghĩ về đứa trẻ thơ
và hối thúc tôi gọi đó là tương lai.
Ở kia là nhà cửa dân tôi
nay đã đổi người,
bao tổn thương mất mát được sắp đặt
ngay ngắn như từ điển trên giá sách.
Bản thân tôi khép chặt, nhưng đôi mắt còn mở to
như cửa sổ nhà mẹ tôi
chưa từng thấy quan cảnh những đứa cháu
chơi đùa ở sân sau -
Nhưng bà đã chứng kiến quân đội Yahweh đùa cợt
với tháng năm của chúng tôi, bà kinh qua thời thế đảo điên
nhìn thân thể nạn nhân hủy hoại triệt để
cùng nỗi hoài mong sụp đổ như những trần nhà.
Và dưới hàng cúc trên lần áo mỏng
Tôi tiếp tục công việc mang tên tồn tại:
Giữ cho Radwa được ấm,
Để Majid lưu lại đến tận khuya
Và mẹ Munif ngắt hoa từ vườn nhà
trong khi bà đợi ông Munif trở về.
Chúng tôi tản bộ giữa rặng núi vào buổi sớm mai,
chuyện trò, lắng nghe, mỏi mệt, từ tốn, nghỉ ngơi, hối hả,
giận dữ rồi thứ tha,
chúng tôi quên đi, đôi khi lạc lối, xin lời hướng dẫn
ngâm lên một khúc Al-Mutanabbi
phá lên cười trước một câu đùa hòa cùng nước mắt.
Tôi có thể khiến cái chết hối cải trước thất bại của hắn không?
Cái chết có tin rằng tôi đang bước đi trên đôi chân người đã khuất?
Bước chân của tôi thuộc về họ,
và bài thơ này đang dỏng tai nghe.
Tôi có nên thuyết phục cái chết rằng sớm thôi sẽ đến lượt mình
như sự cứu rỗi, hay vòng tay ôm.
Nó đang xảy ra rồi
và cùng nhau ta biết đâu kham nổi
gánh nặng của một vẻ đẹp quá sức chịu đựng,
một vĩnh hằng nhỏ nhoi
khiến ta ngạc nhiên trong giây phút này: Tamim chuẩn bị bấm máy
… và tôi lên tiếng, Hãy đợi:
Để tôi chỉnh lại cổ áo cho Radwa
kéo Munif và mẹ tôi lại gần hơn một chút,
đưa những người cao nhất như cha và Majid vào chính giữa.
Cái chết liệu có bị thuyết phục rằng chúng tôi đã hồi sinh
trượt khỏi tay tử thần, cất cánh bay giữa bầy chim?
Trên mặt hồ, chúng ta hòa cùng làn nước,
thành núi tảng và bóng râm,
và hàng quán rải rác bên đường.
Chính nơi đây ta trục xuất nỗi khát khao từ ngôn ngữ.
Khát khao, lời tự thú đánh vỡ và tách đôi
nơi chốn, thân thể và bản ngã.
Bờ cũng là sông
Bởi không có bờ thì con sông đã thành thứ khác.
Và ngọn núi là núi nhờ bao triền đồi bồi đắp
Còn những đóa hoa, chẳng phải đều trổ ra từ cành nhánh?
Như cán cần lưỡi gươm để hoàn thành sứ mệnh
Ai có thể tách rời loài chim khỏi sự hiện diện của đôi cánh?
Ai có thể tách rời ngọn sóng khỏi biển xanh?
Và ai có thể tách rời con thuyền khỏi dòng nước?
Ai từng nói mùa xuân là khi mùa hạ vắng mặt?
Ai tách bạch đám mây khỏi sắc trắng?
Và bầu trời sẽ chẳng còn hào quang
nếu không có vầng trăng trong tim hắn.
Có phải tôi vừa nói những lời này không
hay những người đã chết bất thần ứng khẩu
Tôi không chắc,
Nhưng tôi không nhớ họ -
bởi vì họ còn đây
dưới hàng cúc trong lần áo mỏng.
Hãy đợi nàng (Mahmoud Darwish) /
Hãy đợi nàng
Mahmoud Darwish
English translation by Noor Al Rahbi, 2014
——
Trên tay là ly rượu màu trời khảm lưu ly, hãy đợi nàng
Giữa đêm xuân nồng đượm hương hoa hồng, hãy đợi nàng
Kiên nhẫn như chú ngựa khổ luyện vượt núi rừng, hãy đợi nàng
Cùng mỹ vị đặc trưng của một đấng quân vương, hãy đợi nàng
Bên bảy chiếc gối nhồi căng bằng mây mỏng, hãy đợi nàng
Trong cuộn sóng hương trầm vấn vương, hãy đợi nàng
Đẫm mùi gỗ đàn hương hùng dũng trên lưng ngựa, hãy đợi nàng
Hãy đợi nàng và đừng vội vã.
Nếu nàng chậm trễ, hãy đợi nàng.
Nếu nàng đến sớm, hãy đợi nàng.
Đừng sợ hãi đàn chim giấu mình trong lần tóc tết.
Hãy đợi nàng đến ngồi xuống khu vườn ngày mãn khai.
Hãy đợi nàng hít thở bầu không khí xa lạ với trái tim này.
Đợi nàng vén tấm váy nhẹ như mây dần hé lộ đôi chân
Hãy đợi nàng…
Đưa nàng đến ban công chiêm ngưỡng vầng trăng đắm chìm trong dòng sữa
Hãy đợi và dâng lên nàng nước mát trước rượu vang.
Đừng trộm nhìn đôi chim chukar say ngủ trên lồng ngực nàng
Hãy đợi khi nàng đặt cốc xuống bàn cẩm thạch rồi chạm tay nàng thật khẽ
Như thể ngươi đang hứng lấy cho nàng một giọt sương, hãy đợi.
Chuyện trò với nàng như cách cây sáo ngân lên trước vĩ cầm sợ hãi,
như thể ngươi biết điều gì sẽ xảy đến ngày mai.
Đợi, và mài bóng màn đêm cho nàng như chiếc nhẫn
Hãy đợi nàng cho đến khi Đêm Tối mở lời:
Ngoài hai ngươi, chẳng còn ai sống sót trên đời,
Vậy nên hãy dịu dàng đưa nàng đến cái chết ngươi hằng khao khát,
và hãy đợi.
Cách tôi giết một người lính (Ahlam Bsharat) /
Cách tôi giết một người lính
Ahlam Bsharat
Bản dịch tiếng Anh bởi Fady Joudah
——
Bọn lính thực dân
chúng đã làm gì bao năm nay
trong những bài thơ của tôi
nơi chúng dễ dàng bị giết chết
giữa những dòng viết
như cách chúng xuống tay
giết cả nhà tôi bên ngoài trang giấy.
Thơ là cơ hội duy nhất
Cho tôi trả thù bè lũ sát nhân
nhưng tôi sẽ để chúng già đi
trong sương gió, nếm mùi mục rữa
bốc lên từ cuộc đời, gương mặt chúng
hằn nếp nhăn, nụ cười dần thưa
khi vũ khí bẻ còng lưng chúng.
Bạn đọc thân mến, nếu bạn thấy một chiến binh
rảo bước giữa những dòng thơ,
hãy yên tâm, tôi để số phận chăm sóc chúng
như một tên tội phạm đang thi hành án,
cho đến ngày bị kết liễu.
Và chính đôi tai sẽ xuống tay hạ sát
khi hắn lắng nghe tôi ngâm lên bài thơ
tiếc nhớ một gia đình đã mất,
hắn không thể trốn chạy
khỏi cuốn sổ này lẫn hội trường lớn
nơi bao thính giả đang trừng mắt dõi theo.
Ngươi sẽ không tìm thấy ủi an,
hỡi chiến binh, không bao giờ,
ngay cả khi ngươi rời khỏi
sự kiện đọc thơ
với đôi vai rúm ró
và túi áo đầy vỏ đạn.
Ngay cả khi bàn tay ngươi
run lên bần bật
cùng những viên đạn
sau triền miên tàn sát,
những gì ngươi còn có thể
để lại
là một thanh âm đã chết.
Ahlam Bsharat, June 8, 2021
—Ramallah
—-
Ahlam Bsharat (1975 - ) Nhà thơ người Palestine, bà cũng là một người viết hồi ký và tiểu thuyết cho tuổi trưởng thành. Bà sinh ra tại làng Tammun ở Jordan Valley. Tiểu thuyết tiêu biểu của bà mang tên “Những cái cây cho người vắng mặt” (Trees for the Absentee)
Vào một đêm không sao (Mosab Abu Toha) /
Vào một đêm không sao
Mosab Abu Toha
——
Vào một đêm không sao
Tôi té ngửa, lộn nhào
đất trời rung chuyển và
tôi rơi khỏi chiếc giường êm.
Tôi vội nhìn qua cửa sổ. Căn nhà
kề bên đã chẳng còn
đứng vững. Bị san bằng
như một tấm thảm phẳng lì trên nền đất
bị giẫm đạp bởi đạn pháo, và những chiếc giày
đang bay khỏi bàn chân đứt rời.
Tôi chưa từng biết rằng hàng xóm mình còn giữ chiếc tivi nhỏ,
bức tranh xưa vẫn còn treo trên tường,
và con mèo nhà họ vừa mới sinh con.
Ngữ điệu đã chọn ta (Mahmoud Darwish) /
Ngữ điệu đã chọn ta
Mahmoud Darwish
Bản dịch Anh ngữ bởi Fady Joudah
——
Ngữ điệu chọn ta, siết lấy cuống họng ta
Ta là dòng chảy tuôn trào từ cây vĩ cầm chứ không phải kẻ chơi đàn
Ta là một phần trong ký ức hiện diện
Là tiếng vọng vạn vật mượn thân thể này cất tiếng
Và rồi từ đó, ta mở miệng…
Mỗi khi lắng nghe hòn đá, ta nghe thấy
tiếng gù của chim câu trắng
thấp thỏm trong tim ta rằng:
Người anh em! Ta là em gái của người
Nhân danh nàng, ta cất lời khóc than cùng những giọt nước mắt của lời
Và mỗi khi ta thấy cội rễ cây xoan
nhẹ bỗng bay lên những tầng mây,
ta liền nghe thấy trái tim một người mẹ
đập liên hồn trong ta rằng:
Ta đã ly hôn,
và nhân danh bà, ta nguyền rủa bóng đêm phủ trên lũ ve sầu.
Và mỗi khi ta nhìn thấy người đàn bà trên mặt trăng
Ta nhìn thấy tình yêu như loài quỷ dữ
gườm mắt nhìn lại rằng:
Ta vẫn ở đây
Nhưng ngươi sẽ chẳng còn là con người ngày ta rời bỏ
ngươi không thể quay lại, và ta cũng thế
ngữ điệu đã đi trọn một vòng
rồi tròng lấy cuống họng ta…
Ông tôi là một tên khủng bố (Mosab Abu Toha) /
Ông tôi là một tên khủng bố
Mosab Abu Toha
——
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người chăm sóc ruộng đồng,
tưới tắm hoa hồng trong sân,
hút thuốc lá cùng bà tôi
trên bãi biển nắng tràn, người nằm dài ở đó
như tấm thảm cầu nguyện.
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người hái những quả chanh và cam ngọt,
cùng họ hàng đi đánh cá đến tận trưa,
giữa đường đi người cất lên tiếng hát
gửi anh thợ gò từ trên lưng ngựa đốm.
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người thường cho sữa vào tách trà,
ngồi thư giãn giữa điền trang xanh mướt
mượt mà như dải lụa êm.
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người rời khỏi ngôi nhà của mình
để cưu mang bao người khách mới,
người rót nước sẵn trên bàn, thật tử tế
để khách lạ đừng chết khát sau chuyến chinh phạt.
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người cuốc bộ đến ngôi làng gần nhất,
trắng tay dưới vòm trời buồn,
trống rỗng như túp lều bỏ hoang,
đen sạm như màn đêm tăm tối.
Ông tôi là một tên khủng bố -
Người từng là một người đàn ông
là trụ cột của gia đình mười miệng ăn,
gia sản của người là một túp lều tranh,
với lá cờ Liên hiệp Quốc vắt ngang thanh xà cũ,
trên bãi biển vàng, bên cạnh nghĩa trang.
Sự tồn tại (Fadwa Tuqan) /
Sự tồn tại
Fadwa Tuqan
Bản dịch tiếng Anh bởi Michael R. Burch
——
Giữa cõi đời quạnh hiu tôi là câu hỏi thất lạc
vây quanh là bạt ngàn cõi tối
nơi câu trả lời giấu mình giữa đơn côi
Và người là ánh sao sáng ngời
mà số phận phơi bày,
tỏa sáng từ thẳm sâu màn đêm không đáy.
Xoay quanh người là những vì sao
- một, rồi hai -
Cho đến khi tôi giang tay đón lấy
hào quang độc nhất của người,
Rồi bóng tối lạnh lẽo chợt vỡ tan
Và trong cơn rung chấn song sinh
khi bàn tay quấn lấy bàn tay
Tôi tìm thấy câu trả lời đã tìm kiếm bấy lâu.
Đôi ta thật gần gũi mà sao quá cách xa!
Người có còn nhớ sự hợp nhất
khi linh hồn ta cháy bừng trong biển lửa
khi hai vũ trụ lao vào nhau
giữa hai người thi sĩ?
Dù giữa đôi ta là khôn cùng khoảng cách
Ta hợp nhất vì ta tồn tại.
Trò chuyện trong ngục tối (Tawfiq Zayzad) /
Trò chuyện trong ngục tối
Tawfiq Zayzad
Bản dịch tiếng anh Asia Bamia
——
Tôi nhớ, tôi nhớ chứ
Bao đêm cay đắng
những hàng kẽm gai ở ngục Damon
nơi chính nghĩa treo trên tường rào,
và mặt trăng neo trên thập tự giá
nơi song sắt cửa sổ xà lim.
Tôi nhớ những điền trang tàn nhang đỏ
trổ đầy gương mặt lão cai ngục khó ưa.
Tôi nhớ, tôi nhớ chứ
Những đêm thâu chúng ta chuyện trò
Trong buồng giam bụi mù tăm tối
Ta thở dài giữa những mẩu chuyện tình
Và gầm gừ trước câu chuyện về trộm cướp
Rồi hò reo khi quân nổi dậy đoạt lấy tự do.
Ôi, nhân dân tôi
Ôi, như trầm hương cháy tàn,
Mọi người thân thương hơn chính sinh mệnh này
Và chúng ta giữ lời hứa
Chúng ta chịu đựng một đời mục rữa trong tù
Ràng buộc bởi bất công và song sắt
Chúng ta chịu đựng đói khát và mất mát
Hòng phá vỡ gông cùm ánh trăng treo
Mong muốn trả lại dân ta những quyền bị tước đoạt,
Và đòi lại tương lai từ lòng tham của bóng tối
Vì ta không thể để chúng thành món hàng đổi chác!
Không thể để con thuyền chỏng chơ không cánh buồm!
Chẳng còn lại gì (Fadwa Tuqan) /
Chẳng còn lại gì
Fadwa Tuqan
Bản dịch tiếng Anh bởi Michael R. Burch
——
Chúng ta còn bên nhau đêm nay
nhưng ngày mai anh sẽ lại bị giấu đi lần nữa,
bởi cuộc đời thật cay đắng.
Biển cả sẽ ngăn cách đôi ta
Ôi… Ôi… Giá như ta được nhìn thấy anh
Nhưng ta sẽ chẳng bao giờ biết đến…
nơi anh lưu lạc
con đường anh rẽ ngang
những đích đến không tên
mà đôi chân buộc anh đi tới.
Anh sẽ rời đi, và rồi kẻ trộm của trái tim,
kẻ khước từ cái đẹp,
sẽ cướp đi những gì thân thương nhất
cướp đi hạnh phúc của chúng ta,
chỉ chừa lại bàn tay trống rỗng.
Và khi hừng đông đến anh sẽ biến mất như một bóng ma
tan vào trong làn sương mờ ảo
nhanh chóng hòa vào vầng dương ngày hạ.
Mùi hương… mùi hương của anh, là mật ngọt của đời
thấm đẫm trái tim ta
như mặt đất hút lấy hạt mưa căng tràn sức sống.
Ta sẽ nhớ anh như cây lá tỏa hương
khi ngày mai anh lần nữa lên đường
và chẳng còn gì sót lại.
Như những gì đẹp đẽ, thân thương nhất
đánh mất - thất lạc! và chẳng còn gì sót lại.
Đừng viết sử như những bài thơ (Mahmoud Darwish) /
Đừng viết sử như những bài thơ
Mahmoud Darwish
Bản dịch tiếng Anh bởi Fady Joudah
——
Đừng viết sử như những bài thơ, bởi nhà sử học
là vũ khí. Họ không run rẩy khi xướng tên người chết
và bỏ ngoài tai tiếng đàn ngân nga. Lịch sử là bản kê toa
của vô vàn đạn pháo rơi xuống thân thể ta hằng ngày.
“Tình báo siêu việt là đấng tối cao”. Lịch sử
chẳng biết xót thương nên ta ngưỡng vọng một
Khởi nguồn, nó không hàm giấu một ý đồ
nên ta biết điều gì ở phía trước, cái gì
bỏ lại sau lưng… Nó không cất nên những trạm dừng
cho ta chôn cất người đã khuất; để ta ngồi xuống hồi tưởng
những gì thời gian đã gây ra, và những gì ta đã làm với nó.
Ta vừa là một phần mật thiết trong lịch sử, mà cũng là kẻ ngoài cuộc.
Lịch sử không logic hay cảm tính, nên ta chẳng thể đập vỡ
những tàn dư hoang đường về thời gian hạnh phúc,
Nó chẳng phải một huyền thoại để ta bám trụ trước cổng trời
ngày Phán Xử. Lịch sử trú ngụ trong ta, bên ngoài ta… nó lặp đi lặp lại
điên cuồng, từ những trụ bắn đá đến sấm chớp hạt nhân.
Ta vô tình tạo nên lịch sử, và nó cũng nhào nặn ta… Có lẽ
lịch sử chẳng như ta mong đợi, bởi vì
Nhân Loại thực ra chưa từng tồn tại?
Bao triết gia và họa sĩ đã bước qua đây…
Cùng những thi sĩ viết nên nụ hoa tím đời thương
Họ bước qua đây… trước mặt là những người khốn khổ
trót tin lời họ về cõi vĩnh hằng, họ chờ đợi…
Thánh thần đã đến giải cứu tự nhiên khỏi tín ngưỡng
và họ bước qua đây. Nhưng lịch sử chẳng có
thời gian để suy tư, không một tấm gương
và chẳng có khuôn mặt. Nó là hiện thực không tưởng
là sự xa hoa tầm thường, vậy nên đừng viết.
Đừng viết, đừng viết về lịch sử như những bài thơ!